Tôi cố hết sức né tránh, hiềm nỗi tay chân bị trói chặt không động đậy được, chiếc lưỡi ngày càng thít chặt hơn, chiếc đèn pin rơi xuống đất vẫn còn sáng, chiếu thẳng vào cái đầu trước mặt tôi, hai khuôn mặt gần như sắp chạm vào nhau. Vì khoảng cách quá gần, nên nhìn thế nào cũng không giống khuôn mặt của người còn sống, tôi cuống tới nỗi gân xanh trên trán giật lên từng hồi, toàn thân chỉ còn mỗi phần đầu là có thể động đậy được, tôi hét to lên: “Xem tao cắn đây!” tôi nhằm thẳng vào khuôn mặt ả ma nữ chuẩn bị cắn.
5
Tôi há to miệng chuẩn bị cho một nhát vào cái đầu ma nữ đang tiến lại gần sát mặt mình, bỗng một luồng sáng xanh xoẹt qua trước mặt, cái đầu ma nữ mọc nơi đầu lưỡi lắc lư vài cái rồi rơi xuống lăn lông lốc trên mặt sàn, khuôn mặt xinh xắn trở nên méo mó, hai mắt trợn ngược, co giật một lúc rồi im bặt không động đậy nữa, khuôn mặt ngay lập tức chảy sệ, xuất hiện sự phân hủy.
Cái lưỡi có vẻ rất đau đớn, vội rụt lại ra phía sau, tôi thấy cơ thể mình được thả ra, rơi bịch xuống sàn nhà, cảm giác như xương khớp toàn thân đều bị gãy.
Hóa ra Điền Mộ Thanh nhìn thấy bộ dạng của ả ma nữ thì sợ quá, lùi lại nấp phía sau chiếc cột, trông thấy tôi ở thế bất lợi, cô vội nghĩ cách tiếp ứng, trong lúc luống cuống có gì dùng nấy, cô cầm chặt lấy thanh kiếm đồng trong tay chém thẳng vào chiếc lưỡi đang cuốn chặt lấy tôi. Thanh kiếm này không lợi hại tới mức có thể chém được rồng nhưng cũng rất sắc bén, một nhát kiếm đã chém đứt cái đầu.
Tôi thấy thật xấu hổ, lại để Điền Mộ Thanh ra tay cứu mình lần nữa. Thấy bên ngoài không còn động tĩnh gì, tôi nhịn đau nhặt chiếc đèn pin lên, Mặt dày lúc này cũng mới rút được chiếc cuốc chim ra khỏi cột. Ba người cùng lượn một vòng quỷ môn quan về, nỗi sợ hãi khủng khiếp đó lan tỏa toàn thân, một lúc sau vẫn chưa ai thốt được lên lời. Sàn nhà nhầy nhụa máu, mùi hôi tanh sặc sụa, nhan nhản là những mảnh xác người chết, bên ngoài điện cũng từng đống xác người nát vụn, lớp sương mù trắng bạc trước đó giờ chuyển thành màu đỏ của máu.
Tôi và Điền Mộ Thanh băng bó vết thương cho Mặt dày, lớp sương máu bên ngoài điện vẫn chưa tan, chúng tôi không khỏi sợ hãi, biết rõ trong thôn làn này chẳng có chỗ nào là an toàn, nhưng cũng chẳng ai muốn ở lại cái nơi khắp nơi đều là xác chết này một chút nào.
Mặt dày nhặt khẩu súng săn lên, tôi cõng Điếu bát, Điền Mộ Thanh cầm đèn pin, cả bọn vội vội vàng vàng đi về phía đường hầm phía tây ngôi làng. Nhưng địa thế ngôi làng đều bố trí xung quanh núi Huyền Cung, nhà dân phần lớn đều là các hang đá, phân bố theo sườn núi, bên trong quét một lớp vôi, dựng mái lợp ngói, chia thành hai gian trước và sau, phía dưới đốt củi, phía sau là phòng ngủ, phía trước đắp lũy giống như bức tường bình phong, chỉ có kích thước khác nhau, còn hình dạng nghìn cái như một.
Số nhà trong thôn không nhiều, khoảng hơn mười nghìn người, dân làng đều tin vào tôn giáo đã được truyền lại hơn hai nghìn năm, xung quanh đắp thành lũy bằng đất để tránh kẻ địch, nói nơi đây là một thành trì cổ kể cũng không ngoa. Nhà cửa ở phía Tây ngôi làng không có dấu tích bị hủy hoại, những mái nhà cao thấp ẩn hiện trong sương mờ, tuy cỏ dại mọc um tùm, trong không khí nồng nặc mùi ẩm móc và hôi thối, xương người rải rác khắp nơi cho thấy nơi đây không có sự sống, nhưng chúng tôi luôn có cảm giác vẫn còn người sinh sống ở đây, không phải là ảo giác mà hoàn toàn có thể cảm nhận được hồn phách của những người đã chết vẫn còn quanh quẩn đâu đây.
Tôi vừa đi vừa hỏi Điền Mộ Thanh, tại sao mỗi lần nhìn thấy chiếc đầu ma nữ kia thì cô đều hoảng sợ như vậy?
Điền Mộ Thanh cũng không giấu giếm chúng tôi nữa, cô kể: “Năm xưa, người dân trong làng cố hết sức để đưa rồng đất tới Đất quỷ, nhưng trong lúc hành lễ thì xảy ra sự cố, cả thôn làng đều gặp nạn diệt vong, tất cả là đều do người phụ nữ kia.”
Tôi giật mình: “Dường như nó là một con quái vật được hình thành từ rất nhiều oan hồn của người chết, chiếc đầu ma nữ mọc trên đầu lưỡi rất xinh đẹp chuyên dụ người tới miệng yêu quái để ăn thịt, không lẽ ả ta đó cũng là một phụ nữ trong làng?”
Điền Mộ Thanh gật đầu, nói: “Ả ta là Na bà của thôn.”
Tôi và Mặt dày nghe thấy đều lấy làm lạ, chiếc đầu đó trông vẫn còn trẻ trung, dung mạo khác thường, sao lại gọi là Na bà?
Điền Mộ Thanh nói: “Trong Na giáo có phân Na bà và Na ông, giống như nam thần và nữ thần của làng, không kể tuổi tác, địa vị của họ rất cao.”
Năm xưa, khi Phùng Dị Nhân ăn phải trứng rồng đất, qua mấy chục năm mà vẫn không già, đợi khi dân làng phát hiện ra thì đã thành xác chết biết đi. Dân làng lập kế bắt được tại điện Na vương, mổ bụng rút ruột tại chỗ, tính lấy cục thịt rồng đất trong bụng anh ta ra nhưng rồng đất và thi thể của Phùng Dị Nhân đã hợp nhất làm một, không những không tiêu diệt được rồng đất mà người dân trong làng bị chết không ít, đành phải chịu hậu táng tại núi Huyền Cung, dựng miếu cúng tế, mỗi năm đều dâng tế đồng nam đồng nữ, cùng trâu đen ngựa trắng, cứ vậy thầm lặng chờ đợi thời cơ để đem oan hồn và thi thể của rồng đất vào hố tế lễ, đưa về Đất quỷ.
Lúc đó, trong thôn chia thành hai phe phái, một phái theo Na vương thờ Na thần, tuân thủ các nghi lễ do tổ tiên truyền lại, phái này chiếm khoảng tám mươi phần trăm dân làng; sau đó xuất hiện thêm một phái nữa do Na bà cầm đầu, phái này thấy Phùng Dị Nhân ăn thịt rồng đất trở nên trường sinh bất lão, trong khi mình thờ Na thần cả đời mà vẫn phải chịu theo quy luật sinh lão bệnh tử, chẳng thu được chút lợi lộc gì, vì vậy sinh hai lòng, âm mưu giúp rồng đất sống lại.
Những người theo phái của Na bà biết tin ngày mười ba tháng bảy năm Nguyên Bảo thứ ba sẽ có thiên cẩu ăn mặt trăng, lúc đó cánh cổng phía tây thôn làng sẽ được mở. Họ âm mưu ngăn chặn Na vương đưa rồng đất vào nơi muôn kiếp không có ngày tái sinh đó. Buổi chiều hôm ấy, nhân lúc mọi người đang hành lễ, Na bà cầm đầu hơn ba trăm người nổi dậy tạo phản, họ kéo đến Na miếu phá hủy tượng thần, sau đó chia thành nhiều nhánh đánh úp giết Na vương. Có cô bé tay cầm chiếc gương đồng trốn được vào phía sau miếu nên đã thoát được tai nạn đẫm máu đó, nhưng vì tuổi nhỏ sức yếu không đủ sức đẩy cánh cửa đá để ra ngoài nên cuối cùng vẫn bị chết ở trong.
Những người theo Na bà tạo phản không nhiều, lại hành sự đột xuất, kế hoạch không được chặt chẽ, làm sao thực hiện được một sự việc trọng đại như vậy chứ? Cuối cùng phân nửa trong số bọn họ bị giết, còn lại bị bắt làm tù binh. Na vương nổi giận lôi đình, chiếu theo quy định của Na giáo phán tội tử hình, tất cả bọn họ đều chịu hình phạt lăng trì tàn khốc, người cầm đầu nổi loạn là Na bà cũng bị bắt, cả gia đình nhà cô ta hơn mười người già trẻ lớn bé đều bị trói lên cột hành h