Pháp sư Chơn Huệ rước Bửu về chùa cũng có nguyên nhơn dựa vào con mộng giữa canh ba của sư. Trong cơn chiêm bao đó, sự thấy mình đi sâu vào xóm Bánh Phồng giữa vùng lau sậy bát ngát, đến một ngôi mộ đắp đất nằm giữa hai mương nước loáng thoáng những cánh béo tai lá tròn tròn. Một người đàn bà mặc áo bà ba trắng, quần vài xiêm đen ngồi bên mộ dưới cây phù dung trổ bôn trắng. Nười đàn bà bảo: – Bạch thầy, chắc thầy chưa quên tui. Tui là cô Hai Kim quê ở xóm Bánh Phồng nầy. Bởi tui bạc phước, mới lớn đã bị anh của thầy là ông Bang biện Hưỡn cưỡng bức cho tới mang thai. Sau đó bà Bang biện cho tui về ở chung với bà ngoài Cầu Đào. Thời gian đó thầy đi vân du miệt Nam non Bảy núi, tầm sư học đạo nên thầy chưa gặp mặt tui lần nào. Trong bốn năm trời, tui bị bà lớn đối xử hà khắc thái thậm, chịu chửa mắng, đánh đập như cơm bửa. Sau đó, ông Bang biện còn mua sở ruộng mười mẫu ở Hòa Mỹ. tui được bà lớn cho phép đến đó cất nhà trông coi trâu lúa cùng các tá thổ tá điền. Ai dè năm năm sau tui bị chứng huyết trắng. Không được thuốc thang điều trị châu đáo nên tôi chịu ốm o mòn mỏi nhắm mắt lìa đời, bỏ thằng con dại cút côi cho bà má lớn nó hành hạ. Ngày mai thầy tới nhà ông Bang biện xin cho con trai tui theo hầu thầy, bởi giữa thầy và nó có mối túc duyên trải qua bốn kiếp. Cả hai nếu không làm cha con thì cũng làm chú cháu, thầy trò. Thầy an lòng, đừng sợ bà Bang biện tứ chối vì đã tới lúc giữa bà Bang biện và con trai tui trả hết ác nghiệp oan oan tương báo, con tui sẽ theo thầy thoát vòng tục lụy. Đúng như lời cô Hai Kim dặn, pháp sư đến nhà anh chị mình gặp lúc Bửu đang lên cơn bịnh mê man và đang lúc bà Bang biện Hưỡn muốn trút của nợ cho sư. Tối hôm đó, pháp sư Chơn Huệ tụng cho cháu chầu kinh Dược sư rồi mới ngồi tọa thiền. Sáng hôm sau, Bửu đã tỉnh táo, đòi ăn cháo. Pháp sư Chơn Huệ mừng lắm, sai chú tiểu Như Pháp nấu cháo thiệt lỏng trộn với sữa hộp cho cháu ăn. Xong xuôi, đợi khi Bửu ngủ, pháp sư Chơn Huệ cuốc bộ vào nhà ông Năm Tảo. Ông đang phơi khô cá tra, khô cá sặt trong sân nắng. Bên thềm nhà, con mèo mun nằm sưởi nắng, cặp mắt trong veo màu ve chai chong về phía sư. Thấy có khách đến viếng, mà lại là một bực cao tăng, ông Năm Tảo đứng dậy chắp tay xá xá, miệng niệm hồng danh “Nam mô a di đà Phật” rồi mời pháp sư vào nhà. Bà Năm Tảo từ bếp lên, rối rít: – Bạch thầy tới chơi. Chiều nay xin thầy ở đây dùng bữa cơm chay với tụi con. Phÿp sư Chơn Huệ bảo: – Mô Phật, mỗi ngày tôi chỉ dùng một bữa ngọ traii mà thôi. Hôm nay tui đến dùng trà với ông Nhăm và có việc cần tham vấn cùng ông đây. Ông Năm Tảo mời pháp sư ngồi ở ghế trường kỳ, Bà Năm niêm nở: – Trá thì lúc nào nhà cũng có, nhưng hôm qua có một bà ở miết An Hữu lặn lội tới đây biếu cho tía sắp nhỏ bốn lượng trà ngon gọi là thưởng tái đoán bịnh, trị bịnh của ổng. Bà quày quả xuống bếp sai cô Hai súc bình và chén, cô Ba nhúm lữa nấu nước, mà phải là nước mưa trong chiếc mái đầm tích trữ từ hối năm ngoái. Trong khi chờ trà, pháp sư hỏi ông Năm Tảo: – Ông nhắm coi thằng Bửu có thể hết bịnh không? Ông Năm trầm ngâm: – Thưa thầy, tui chẳng biết có phải phước chủ may thầy hay không! Hồi sáng hôm qua, tui bắt mạch cậu Bửu thì thấy mạch đi sắc tế, tướng chết hiện ra. Vậy mà sáng nay thì mạch lại đi vi sác, có cơ may sống được. Nhưng cậu dứt được bịnh lao hay không thì tui không dám nói trước. Khi bà Năm bưng khay trà lên, ông Năm Tảo lộ vẻ suy nghĩ lung lắm. Ông e dè nói: – Căn bịnh của cậu Bửu thì lạ lắm thầy ôi! Tui nói ra đây không phải là muốn gieo hoang mang cho thầy, chớ bịnh của cậu lúc quỉ lúc ma, lúc chường lúc ẩn, tui không biết sao mà đoán! Lúc mới vô buồng cẩu, tui thấy quanh giường cẩu có nhiều kẻ mặt xanh nanh bạc, có cả một mụ già mặt đầy vết rỗ