Tôi kinh hãi nghĩ: “Giữa nơi thâm sơn cùng cốc này tại sao lại xuất hiện đứa bé? Là trẻ con của dân làng gần đây sao?” Tôi vội tới gần rồi mở đẩy cánh cửa ra, bên trong là gian phòng thứ ba cũng giống như hai gian phòng vừa rồi, sàn nhà phủ đầy bụi bặm, trên tường mạng nhện chăng đầy, phía trước tuyệt nhiên không một dấu chân người.
3
Điền Mộ Thanh hỏi tôi: “Anh sao thế, sao lại đứng thẩn ra vậy?”
Tôi chỉ vào chỗ cửa hỏi: “Cô không nhìn thấy gì sao? Chỗ này…”
Điền Mộ Thanh thấy vậy liền cầm đèn pin đi ra giữa gian miếu thờ. “Trong đó có gì đâu, tôi chẳng trông thấy gì cả.”
Tôi nghĩ đứa bé đột nhiên biến mất, giờ nói ra cũng chẳng có bằng chứng gì, làm sao mà người ta tin được, đành nói: “Tôi thấy trên tường gian nhà trong có bàn thờ, mấy gian nhà này chính là miếu thờ đấy.”
Điền Mộ Thanh hỏi: “Bàn thờ à? Trông bộ dạng anh vừa rồi, tôi cứ tưởng anh nhìn thấy gì không hay rồi chứ.”
Tôi thầm quan sát xung quanh, miệng lại nói: “Không có gì, trong miếu thờ thì không thể có ma được.”
Tôi quay đầu lại, vừa vặn nhìn thấy bức tranh Điền Mộ Thanh vừa phủi đi lớp bụi bên trên, trong tranh vẽ hình một cô gái với dáng vẻ yêu kiều, tuy bức tranh đã bị bay màu, hình thù có phần mờ nhạt nhưng vẫn có thể khẳng định không phải là hình ảnh người đeo mặt nạ vỏ cây thường gặp như trong Na giáo, tôi chợt nghĩ: “Nơi đây cũng chưa hẳn là miếu thờ Na thần.”
Điền Mộ Thanh hỏi: “Trong miếu thờ mới có tượng thờ và bích họa chứ, anh cho rằng đây không phải là nơi thờ cúng Na thần?”
Tôi nói: “Trên núi Hùng Nhĩ có ngôi chùa cổ tên là Pháp Hoa, nghe nói trong ngôi chùa cổ này có bức bích họa vẽ một mỹ nhân với sắc đẹp được mệnh danh là có một không hai, hay là chúng ta đã tới ngôi chùa Pháp Hoa đó…”
Nhưng nghĩ lại cũng không ổn, núi Hùng Nhĩ dài mấy chục cây số, chùa Pháp Hoa cách Thảo Hài Lĩnh xa như vậy, quần sơn cách trở, làm sao có thể tới nhanh như thế được, hơn nữa những gian nhà lớn này đều được xây từ đá, không mang vẻ nguy nga lộng lẫy theo phong cách chùa cổ, khả năng là miếu thờ Na thần, chỉ có điều rất hiếm thấy có hình ảnh người bình thường không đeo mặt nạ vỏ cây xuất hiện trong miếu thờ của Na thần.
Điền Mộ Thanh rất hiếu kỳ với bức tranh vị nữ bồ tát mà tôi vừa nhắc tới, cô hỏi: “Trong chùa cổ Pháp Hoa tại sao lại vẽ tranh mỹ nữ? Người trong tranh đúng là rất đẹp sao?”
Tôi nghĩ: “Điền Mộ Thanh rất thích thú với hội họa, hơn nữa một cô gái trực tiếp nghe lời khen ngợi một cô gái khác trước mặt mình thì không tránh khỏi có chút ghen tị.” Tôi đành nói với cô ấy: “Hoàng đế thời Tống rất sùng đạo Phật, đã hạ chỉ cho xây chùa Pháp Hoa tại núi Hùng Nhĩ, còn lệnh vẽ bích họa trong chùa, đã chỉ định vị họa sỹ giỏi nhất thời đó đảm đương công việc vẽ tranh, tuy sức yếu nhiều bệnh, nhưng người này vẫn bị ép đến làm việc, con gái ông ta lo lắng cho sức khỏe của cha già đã giả thành nam nhi tới núi Hùng Nhĩ trà trộn trong đám thợ để chăm sóc cho cha mình. Hàng ngày làm các công việc giặt giũ quần áo, cơm nước cho đám thợ nên ai cũng quý mến. Trong bảo điện thì đương nhiên phải có tranh Bồ tát, nhưng lúc đó không tài nào vẽ nổi, tuy bức tranh đã đẹp rồi nhưng chưa đạt được vẻ thoát tục. Tên đốc công do triều đình phái đến lo sợ sẽ ảnh hưởng tới tiến độ thi công đã nổi giận lôi đình, lệnh cho quân lính phạt roi các thợ vẽ tranh, trong đó có ông họa sỹ già, nếu phải chịu số đòn roi đó thì coi như mất mạng. Lúc này, con gái của lão họa sỹ già xuất hiện nguyện thay cha mình chịu đòn. Tên đốc công thấy cô dung mạo tuyệt vời nhận ra là gái giả trai, liền ép cô phải cởi hết quần áo để chịu phạt. Cô gái biết số mình không may, chỉ quay đầu lại nhìn cha mình và đám thợ vẽ tranh lần cuối rồi mỉm cười nhảy vào chỗ lò nung thép đúc tượng. Ngay lập tức cô hóa thành đám mây trắng bay lên trời, nhưng dung mạo thần thái của cô đã in đậm trong tâm trí của đám thợ, họ đã vẽ thành công bức bích họa đại từ đại bị cứu khổ cứu nạn của Quan thế âm Bồ tát. Chính vì vậy bức họa trong ngôi chùa này khác hẳn với những ngôi chùa khác, đáng tiếc qua sự bào mòn của thời gian, đã không còn giữ được vẻ đẹp nguyên thủy của bức tranh nữa.”
Điền Mộ Thanh lớn tiếng thở dài, một lúc sau vẫn còn im lặng trầm tư.
Tôi thì chẳng có tâm trạng nào mà thông cảm cho người xưa, hơn nữa câu chuyện này vừa nghe đã biết là bịa đặt, cô gái kia giả trai mà cũng không biết làm cho giống lên một chút, bôi ít nhọ nồi cho mặt đen đi chẳng hạn, đúng là ngốc hết chỗ nói.
Tôi vừa nói vừa phủi lớp bụi trên tường đi, dựa vào ánh sáng của ngọn nến, tôi xem xét một lượt những bức họa. Các bức họa tại bức tường phía đông đã bị bong tróc nặng khó nhìn ra hình gì, nội dung không còn nguyên vẹn, chỉ lờ mờ nhận ra khuôn mặt của mấy cô gái, phía sau có một số đồng nam đồng nữ người cầm kiếm người cầm gương, không hiểu là để làm gì. Bức tường phía Tây vẫn còn tương đối nguyên vẹn, bức bích họa như một bức hoành phi vẽ lại một ngọn núi lớn cao chạm mây xanh, trong lòng núi ẩn hiện những cung điện nguy nga, xung quanh chi chít nhà cửa với hàng vạn người sinh sống, ba phía đông, tây và bắc đều là núi, ở ngọn núi phía bắc có một hang động, giữa cửa hang và ngôi làng là một gốc cây to đã chết khô và mấy gian nhà đá, phía tây ngôi làng là bãi tha ma, phía đông là bệ đá lớn, phía nam có tấm bia đá đặt trên mai co bí hí[1'>, trong bức tranh còn có vài đường kẻ màu đen mờ nhạt không rõ ràng, còn phía trên bức tranh là một vị Na tướng quân diện mạo rất hung dữ.
[1'> Bí hí hay còn gọi là Quy phu, bề ngoài khá giống con rùa, thích mang nặng, có thể cõng cả tam sơn ngũ nhạc không bao giờ mệt mỏi vì thế tượng Bí hí cõng trụ đá, cõng bia thường bị nhầm thành con rùa.
Tôi nói với Điền Mộ Thanh: “Mấy gian nhà này đúng là có liên quan tới Na thần, giờ chúng ta đang ở vị trí này, chỉ cần đi xuyên qua khu rừng là tới được động Ngư Khốc, con đường đó lúc vào đây chúng ta đã đi qua.”
Trong bức bích họa còn có một số chữ cổ ghi chú cho một số vị trí, tôi chẳng biết chữ nào nhưng Điền Mộ Thanh thì có thể đọc được một ít, cô chỉ cho tôi thấy: “Chỗ đụn đất ở chính giữa là núi Huyền Cung, Huyền Cung chính là địa cung, ngôi làng dưới núi là thôn Thiên Cổ Dị Đế, hang động phía bắc là động Ngư Khốc, tấm bia đá trước cổng làng được gọi là bia Tầm Na, gốc cây khô đó là cây Na, dưới gốc cây là Na miếu, phía tây ngôi làng là nơi cúng tế của người Quỷ Phương (Đất quỷ), có một con đường hầm thông với thôn làng, phần phía đông có rất nhiều mồ mả không rõ tại sao lại không