Cả ba chúng tôi đều điếng người, cũng không dám đứng lâu trong ngôi làng ma quỷ này, vội vã len lỏi trong những dãy nhà để thoát ra khỏi thôn làng.
Ngôi mộ cổ trên núi Hùng Nhĩ chỉ có phần nấm mồ là nhô lên khỏi mặt nước, người dân trong vùng gọi đó là Tiên Đôn, chúng tôi vào đây rồi mới biết, thực ra đó chính là một ngọn núi, dưới chân núi là nhà dân, đó là số người dân ở lại nơi đây canh lăng tẩm, sau đó cả vùng này bị nhấn chìm xuống đáy hồ, chỉ còn ngọn núi là nhô lên khỏi mặt nước, phía bắc chính là động Ngư Khốc, Thảo Hài Lĩnh.
Giờ chúng tôi nên đi về hướng bắc, bỗng nghe thấy tiếng sấm dội bên tai, trời bỗng đổ mưa, mây mù có tan đi phần nào. Tầm nhìn tốt hơn, chúng tôi trông thấy phía trước là rừng, cây cối rậm rạp, phía trước là một màu tối đen vô tận.
2
Mưa mỗi lúc một to và dày hạt hơn, đang lúc giữa tiết mùa thu, thời tiết trong núi lạnh lẽo, tê buốt không thể chịu được, chúng tôi ướt nhẹp, dò dẫm từng bước đi về phía ven rừng. Chúng tôi nhìn thấy mấy gian nhà cổ dưới một gốc cây đã chết khô, trong nhà không đèn không đóm nhưng làm chỗ trú mưa cũng được, chúng tôi đành phải vào trong lánh tạm, đợi tới sáng mai rồi đi tiếp vậy. Lại gần mới thấy, căn nhà lớn này tận dụng nguyên liệu ngay tại vùng, được xây bằng những viên đá khối xẻ trong núi, trát bằng đất và vôi, cột gỗ cái nào cái nấy to lớn, chắc nịch, hết sức kiên cố. Chúng tôi bước vào gian nhà to đầu tiên, chỉ thấy bên trong trống tuềnh trống toàng, trên tường có vài cái hốc để đặt đèn, khắp nơi bám đấy bụi bặm, vì đã lâu không có người sinh sống, nên mùi ẩm mốc lẫn với mùi thối rữa của cây cối bốc lên vô cùng khó chịu.
Chúng tôi tháo ba lô ra, tìm chỗ đặt Điếu bát nằm xuống, vần mấy viên đá bịt kín cửa ra vào, trong ba lô Mặt dày còn một túi nến nữa, anh ta thắp một cây đặt ở góc nhà.
Tôi thấy Điếu bát vẫn đang hôn mê nhưng hơi thở vẫn đều đặn nên cũng yên tâm phần nào. Tôi lấy ra hai điếu thuốc lá, vứt cho Mặt dày một điếu, hai người ngồi dựa lưng vào tường rít mấy hơi liền. Nghĩ lại cảnh tượng vừa rồi trong địa cung, cánh tay cầm thuốc của tôi vẫn run lên sợ hãi.
Mặt dày lật xem tấm bản đồ của Điếu bát, hỏi: “Cậu nhìn xem, trên bản đồ sao không có chỗ này?”
Tôi nói: “Chúng ta ra khỏi địa cung đi theo hướng Bắc, phía Bắc chính là động Ngư Khốc, nhưng sao lúc tới đây bọn mình không nhìn thấy khu rừng này nhỉ? Đúng là gặp ma rồi, cái nơi quỷ quái này lại còn vừa mưa vừa sương mù, chắc phải chờ trời sáng mới phân biệt được vị trí, mong là đừng xảy ra chuyện.”
Mặt dày nói: “Đã ra khỏi khu mộ cổ rồi còn sợ gì nữa? Chuyến này bọn mình thu được chiếc vương miện vàng và dây lưng bằng ngọc nhưng lại chẳng thuận lợi chút nào, lần sau xuất hành phải xem ngày giờ mới được, không thể đi vào ngày kỵ động thổ.”
Tôi nói: “Ông đúng là chẳng biết gì, động thổ là chỉ chuyện hạ huyệt dời mộ, liên quan gì đến đổ đấu? Có ai đi đào mộ trộm đồ còn xem ngày xem giờ không? Kiếm cơm bằng cái nghề đổ đấu này chỉ dựa vào gan to không mê tín, chẳng kiêng kỵ gì sất. Đương nhiên vẫn có những tay trộm mộ mê tín, nhưng không phải là chuyện xem ngày giờ, bọn họ thường nghe theo Xuất ngữ.”
Mặt dày không hiểu: “Xuất ngữ à? Là cái gì?”
Tôi giải thích: “Cũng giống như dân giang hồ hay nói tới khái niệm con số may mắn, nó có hơi hướng giống như phong tục ngày Tết, ngày mồng một ra đường thường để ý tới người đầu tiên nói chuyện với mình, theo quan niệm mê tín của người xưa thì trong câu nói đầu tiên của năm mới này ẩn chứa hung cát, chính là dự báo cho vận hạn của năm mới. Lão Nghĩa mù nhà tôi lúc còn sống rất tin vào điều này. Vào đêm ba mươi, sau khi đã ăn tối, thắp hương cúng bái xong là đi ra ngoài để nghe Xuất ngữ. Mà cũng không phải thích đi hướng nào thì đi đâu, phải thỉnh ý kiến của Sư tổ, mà bài vị của Sư tổ nào có biết nói, đành mượn cái thìa chỉ hướng vậy, kính cẩn đặt cái thìa trước bài vị xong xoay một vòng, chiếc thìa chỉ vào hướng nào thì xuất hành theo hướng đó. Nếu chỉ về hướng đông thì ra cửa xuất hành theo hướng đông, nếu hướng đó là một ngõ cụt, không còn cách nào khác phải quay về thì phải thỉnh ý kiến Sư tổ một lần nữa, lần này là hướng bắc, vừa vặn hướng bắc là chỗ trú chân của một tên ăn mày. Đêm ba mươi thì ăn mày không ra đường ăn xin, bụng rỗng thì đành phải đi ngủ sớm, canh tư mò dậy đi tiểu, đúng lúc lão Nghĩa mù đi ngang qua, nghe tiếng nước chảy thì mừng thầm trong bụng, cứ cho rằng gặp nước là phát tài, thật là một điềm may, trong năm nay ắt thu được nhiều món hời. Nếu không đi ra ngoài thì canh năm dậy đốt pháo rước thần tài, tiếng pháo nổ có đẹp hay không cũng là điềm báo cho năm mới. Lão Nghĩa mù rất tin vào những điều này, có đúng hay không tôi cũng không biết, nhưng bản thân tôi thì chẳng mấy tin vào những thứ đó.”
Dù sao tôi cũng không yên tâm về ngôi nhà không có trong bản đồ này, nói chuyện với Mặt dày vài câu bỗng thấy càng ngày càng lạnh, dặn dò Mặt dày và Điền Mộ Thanh trông nom Điếu bát, tôi ra ngoài kiếm ít củi về đốt.
Điền Mộ Thanh lạnh run cầm cập, cô không chịu nổi gian nhà to âm u lạnh lẽo này, cứ đòi đi theo tôi.
Tôi nghĩ ngợi một lúc rồi cũng đồng ý, mang theo súng săn và đèn pin, giao cho Điền Mộ Thanh một cây nến, chúng tôi đẩy cửa vào gian phòng thứ hai, gian phòng này còn to hơn gian trước, sáu cột năm dầm, bệ cột đá hình hoa sen, trông như một gian điện, mấy bức tượng giữa phòng đã bị đổ sập, trên tường chi chít bích họa, đều phủ dày bụi bặm, màu sắc mờ nhạt nhưng vẫn còn xem được nội dung.
Tôi nhất thời không nói được gì, thần người ra một lúc mới lên tiếng: “Thần thổ địa lấy ráy tai xây tường chắc – vô lý thật! Đây chính là điện thờ Na thần.”
Điền Mộ Thanh kinh ngạc: “Hóa ra chúng ta vẫn chưa ra khỏi ngôi làng.”
Tôi nói: “Lạ thật, tại sao ở đây lại không có dấu hiệu bị chìm trong nước.”
Điền Mộ Thanh nói: “Từ số bức bích họa kia có thể nhận biết nơi đây có phải là miếu thờ Na thần không…” nói rồi cô soi đèn lại gần, phủi lớp bụi phía trên, cúi đầu nghiên cứu những bức tranh.
Tôi cũng đang định tới xem thì chợt thấy ớn lạnh, không phải do trong ngôi miếu cổ này ẩm thấp lạnh lẽo mà là lạnh từ bên trong lạnh ra khiến toàn thân nổi da gà.
Tôi nghĩ thầm: “Trong này có