Thời kỳ lính Mỹ tấn công Củ Chi mới là giai đoạn ác liệt nhất. Bà con bị gom hết vô ấp chiến lược. Chú SAM mở các trận càn vào khu địa đạo, trong đó qui mô nhất là trận càn mang tên “ Bóc vỏ trái đất”. Bom , pháo, đạn, chó Bẹc-giê, lính Sài Gòn, lính Mỹ…đổ xuống dày đặc bắn nhau suốt mấy tháng liền… Chiến sự đi qua, để lại trên vùng quê của ngoại bao tang tóc. Những xác chết không còn hình dạng, những khúc xương, mảnh thịt tung toé hoà lẫn vào trong đất, trở thành phân bón cho cây. Có những căn hầm trú ẩn bị bom dội trúng chỉ còn lại một hố sâu thẳm thẳm nghi ngút khói…
Thể xác hoà trong đất, anh linh của những người đã chết vẫn còn phảng phất trong sương khói…
Bên cạnh đám ruộng của ngoại tôi là ruộng của ông Năm Giàu. Ngày đầu sau giải phóng, về nhận lại đất ruộng để cấy cày, người nhà ông Năm cày lên từng khúc xương đầu, xương ống, có cả những mảnh biđông nước, vải dù… Lẽ ra họ phải gom lại và an táng để an ủi vong linh, đằng này nhặt được khúc xương nào họ lại quăng chài lên bờ khúc đó, lại còn chửi rủa lầm bầm. Hôm ra ruộng ngoại tôi nhìn thấy bất nhẫn có lờI nhắc nhở, thằng Hai Đực con ông Năm còn lớn tiếng: – Chết là hết rồi! Mắc nợ gì mà tụI tôi phải chôn cất cúng bái chứ. Nếu bà dị đoan quá thì cứ rước về mà cúng.
Ngoại tôi chỉ biết thở dài, kêu cậu Năm tôi ra thu nhặt đem chôn cất cẩn thận. Ba tháng sau, ruộng các nơi bị sâu rầy phá hại, thiệt hại không nhỏ. Ruộng nhà ngoại cũng bị rầy cắn phá đôi chút. Chỉ có ruộng nhà ông Năm Giàu là vẫn xanh mượt mà, không có bóng dáng một con rầy nào. Ai cũng cho là lạ. Ngoại tôi lén thở dài: “Ông trời không có mắt…”. Mấy tháng sau nữa, lúa chín vàng, mọi người bắt đầu thu hoạch. Kì lạ làm sao! ruộng lúa nhà ông Năm vẫn cứ một màu xanh ấy từ lúc lúa người ta trổ đòng đòng, ngậm sữa rồi chắc hạt, vàng hạt. Đến khi ai nấy thu hoạch xong xả rồi, xung quanh chỉ còn trơ gốc rạ, đám ruộng ấy vẫn cứ xanh mượt như cỏ non, không có một bông lúa… Ngoại tôi lại nói: “ Trời cao có mắt. Tại mình không chịu tin đó thôi”…
Trong cái xóm nhỏ dưới chân dốc Bến Mương, ngoại tôi được bà con yêu thương vì biết sống tốt với mọi người. Ngoại hiền và đức độ, vậy mà bà thường xuyên gặp ma mới là chuyện lạ. HồI đó, thỉnh thoảng má tôi lại thấy ngoại đứng trước sân nói chuyện bâng quơ với ai đó. Khi ngoại vào nhà, má hỏi thì ngoại trả lời ậm ừ : “ Thì… mấy chú lính đó mà!”. Những lúc như vậy thì ngay hôm sau, thế nào má cũng thấy ngoại nấu một nồI cơm gạo thơm, đánh ra, vò thành nắm như trứng vịt rồi bày ra cái sàng tre có lót lá chuối, kèm theo dĩa muối tiêu, mấy lát hột vịt, có khi là vài miếng khô cá trèn xé nhỏ. Ngoại bưng ra ngoài đầu ngõ, đặt dước gốc cây to nhất và lặng lẽ thắp nhang, nói chuyện một mình. Về sau, ngoại mới kể lại cho má nghe rằng anh linh của các chiến sĩ trận vong không tan đi, họ vẫn tìm về thăm ngoại như những ngày ngoại còn nấu cơm nuôi quân.
Những lúc nghe tay chân phát lạnh, ở trong nhà mà gió cuộn dưới chân liên tục, bụng bồn chồn là biết các anh các chú đang về ở ngoài vườn. Ngoại lập tức chạy ra ngay, y như rằng trước mặt ngoại là vô số bóng hình đứng ngồi lố nhố ẩn ẩn hiện hiện sau mấy tán cây. Người thì tay chân mất hết, người thì dập nát nửa đầu, người thì bị pháo cắt ngang nửa người chỉ còn một phần thịt dính lủng lẳng… có một điều là họ luôn tỏ vẻ mừng rỡ khi gặp ngoại. “ Lúc đầu thì sợ thiệt – Ngoại nói – nhưng riết rồi cũng quen, thấy thương nhiều hơn sợ”. Ước mong của ngoại là tìm một vị cao tăng về lập đàn tràng siêu độ cho các vong linh ấy. Ngoại nói :“ Bây giờ tao còn đây, còn cúng cho mấy chú đó. Ngày nào tao chết, biết ai lo cho họ…”. Ngoại tôi là một người bình thường không đi chùa, không tụng kinh niệm Phật. Nhưng ngoại sống bằng cả tấm lòng, cho dù người đó còn sống hay đã chết…
… Tôi nhớ những năm đầu sau giải phóng, Sài Gòn bị một trận đói tàn khốc, phải ăn độn khoai sắn, bột mì, lúa mì viện trợ. Má tôi lập tức di tản tôi về ngoại. Cuộc sống ở quê lam lũ mà vui. Mỗi sáng 4 giờ, ngoại thức dậy gánh hai giỏ bánh bò và bánh da lợn lên chợ bỏ mối. Có hôm, tôi nằng nặc đòi theo, ngoại lắc đầu mãi rồi cũng đồng ý. Con đường ra chợ chỉ có 5 cây số nhưng tối đen như mực, phải đi qua một con dốc và hai cánh rừng mới đến nơi. Con đường này ban ngày đạp xe đạp đi chở mía tôi đâu thấy sao đâu. vậy mà lần đầu đi đêm với ngoại mới cảm thấy đáng sợ. Ngoại gánh gồng đi trước, tôi xách cái giỏ lót tót đi sau. Một tiếng chim ăn khuya đột ngột cất lên cũng đủ làm tôi giật thót mình. Vừa đi, vừa niệm “Án ma ni bát di hồng” liên hồi kì tận.
Bất chợt ngoại dừng gánh làm tôi suýt đâm sầm vào giỏ sau.
– Chuyện gì vậy ngoại.
– Ờ, con chờ chút.
Vừa nói ngoại vừa lấy ở giỏ trước ra một cái bánh bò và cái bánh da lợn gói sẵn trong lá chuối. Ngoại tiến đến gò mối lớn cạnh bìa rừng, để xuống chân gò và xoè diêm châm đỏ mấy cây nhang đã chuẩn bị sẵn. Mùi khói nhang phảng phất trong không gian buổi sớm làm tôi tỉnh hẳn người… Xong việc, bà cháu lại lên đường. Thắc mắc mãi, cuối cùng ra đến chợ tôi cũng đánh bạo hỏi đại:
– Sao ngoại cúng ở đó vậy ngoại, chỗ đó thờ ông địa hả?
Ngoại khoát tay tỏ ý ngăn tôi lại:
– Để lúc rảnh ngoại kể cho nghe.
Và ngoại đã thực hiện lời hứa. Lúc ấy, tụi tôi đã xay bột làm bánh xong. Trong khi chờ mợ Năm tôi làm cơm, ngoại bắt đầu kể…
Hồi mới giải phóng, con đường chưa tráng nhựa. Ngoại vẫn như lệ thường gánh bánh ra chợ bán. Con đường đất sáng ánh trăng nên ngoại đi khá dễ dàng. Bất chợt, trước mắt ngoại tối mịt mù như có ai đó lấy vải đen che kín tất cả. Quờ quạng trong màn đêm đen kịt, lúc đầu ngoại cũng hơi hoảng hốt. Ngoại chợt nhớ đến câu chuyện của ông Năm Bảng… Ở đây có một thứ ma gọi là ma giăng hàng. Nó thường nắm tay giăng hàng quanh người tạo thành ảo giác khiến cho người bị nhát tối tăm mặt mũi không thấy đường sá gì cả. Ông Năm đã từng bị trêu ghẹo như thế nhiều lần, nhưng ông có cách giải quyết hiệu quả vô cùng… Ông lột trái quần ra, tròng lên đầu, rồi tháo hai chiếc guốc dông cầm tay, vừa đi vừa gõ… cứ thế mà về được đến nhà.
Nhưng ngoại không làm như ông Năm được. Đứng thần người trong khi trước mắt đen kịt một màu, lẳng lặng một lúc lâu ngoại mới cất lời:
– Mấy ông mấy bà ơi! Toàn là dân nghèo mình với nhau không hà. Sao nỡ lòng nào đi phá khuấy như thế. Cũng còn để cho bà con kiếm sống với chứ. Nếu các vị có buồn phiền gì cũng xin hỷ xả cho nhẹ lòng, còn nếu có đói thì tui sẽ làm mâm cơm cúng. Để cho tui ra chợ buôn bán với…
Thở than trong giây lát, trước mặt ngoại sáng dần lên. Ngoại thấy mình đang đứng trước bìa rừng, cạnh một gò mối lớn. Đó chính là gò mối mà tôi đã kể. Lúc ấy, bên cạnh gò mối là một người đang đứng. Trong ánh sáng mờ mờ của bầu trời, ngoại thấy người đó mặc chiếc áo bà ba đen, cột cái khăn rằn ở bụng – cách ăn mặc của những cán bộ hồi chín năm. Có một điều đáng sợ hơn là … bóng người đó không có đầu. Cái bóng cụt đầu sừng sững trong đêm làm ai thấy cũng phải thất kinh hồn vía. Ngoạ