“Anh ấy đang ở đâu ạ? Có ở Bắc Kinh không ạ?” Liễu Địch hỏi thăm dò.
“Không, con trai bác không ở Bắc Kinh, nó làm việc ở tỉnh khác.” Giáo sư Tô Văn trầm ngâm: “Hai gian phòng này vốn là của Hải Thiên. Bây giờ nó không ở đây, hai gian phòng để trống mấy năm rồi.” Ngữ khí của ông có vẻ buồn bã, ánh mắt ông dừng lại ở tấm biển đề “Hải Thiên Thư Ốc”, chắc là ông đang nhớ người con trai ở phương xa.
Sau đó, giáo sư Tô đột nhiên quay sang Liễu Địch, ông cất giọng nhiệt tình và chân thành: “Liễu Địch, con hãy dọn đến đây sống đi. Dù sao hai gian phòng này cũng bỏ trống, chi bằng con đến ở với hai bác. Hai bác sẽ chăm sóc con.”
Liễu Địch ngẩn người, cô không ngờ giáo sư Tô lại đưa ra đề nghị này. Cô mới chỉ gặp giáo sư Tô hai lần, làm sao có thể nhận sự quan tâm yêu thương của ông?
Liễu Địch vội vàng từ chối: “Không cần đâu ạ, không cần làm phiền hai bác đâu ạ…”
“Phiền gì chứ?” Bác gái Tô tiếp lời. Bà có khí chất cao quý nhưng rất hiền từ và nhiệt tình. Nụ cười của bà rạng rỡ đến tận khóe mắt: “Liễu Địch, bác và con tuy lần đầu tiên gặp mặt, nhưng bác không coi con là người ngoài. Lần trước, bác Tô của con về đến nhà liền kể ngay với bác, ông ấy vừa nhìn thấy con đã thích con ngay. Âu cũng là duyên phận. Con thử nghĩ xem, cả nước có bao nhiêu người thi vào Bắc Đại, vậy mà mỗi bài thi của con xảy ra vấn đề, người đi điều tra lại chính là bác Tô của con, lúc điều tra còn tình cờ gặp…” Bác gái Tô im lặng một hai giây rồi nói tiếp: “Trùng hợp như vậy, chúng tỏ con và chúng ta rất có duyên đúng không? Ngôi nhà này lớn như vậy, Hải Thiên không biết bao giờ mới quay về. Mấy năm nay chỉ có hai ông bà già này trông nom bảy gian nhà, lạnh lẽo và cô độc biết bao…” Thanh âm của bác gái Tô bỗng trở nên thê lương và nặng nề: “Hai bác rất hy vọng có ai đó sống cùng hai bác, để hai bác cảm thấy không khí gia đình thật sự.”
“Đúng đấy, Liễu Địch.” Giáo sư Tô Văn nhìn Liễu Địch bằng ánh mắt tràn đầy yêu thương. Giọng nói của ông trịnh trọng, chân thành và chua xót: “Nếu con không không chê, con hãy coi nơi này là ngôi nhà ở Bắc Kinh của con, con hãy coi hai bác là bố mẹ ở Bắc Kinh của con.”
Liễu Địch cảm động nhìn hai ông bà già tóc bạc trắng. Ánh mắt buồn bã và sự nhiệt tình của họ khiến cô không thể tiếp tục từ chối.
Thế là Liễu Địch trở thành “khách quen” của Trúc Ngâm Cư. Nói thật, tuy Liễu Địch rất yêu Bắc Đại, nhưng môi trường vệ sinh vừa bẩn vừa loạn ở ký túc xá khiến Liễu Địch phát sợ. Vì vậy, cô cứ cách hai ba ngày lại chạy đến Trúc Ngâm Cư. Hai ngày nghỉ cuối tuần, cô ở lì cả ngày. Cuối cùng, giáo sư Tô cũng có thể thuyết phục Liễu Địch dọn đến “Sảng Ấp Trai”. Ông nói: “Cả hai gian phòng ở phía Tây đều thuộc về con, con có thể sử dụng đồ đạc và sách vở tùy ý, Hải Thiên sẽ không tức giận đâu. Chỗ nó ở bây giờ cũng có rất nhiều sách.” Vì vậy, hai gian phòng ở phía Tây trở thành thế giới của Liễu Địch.
Khi mới dọn vào “Sảng Ấp Trai”, Liễu Địch có một cảm giác xa xỉ. Không phải bởi vì gian phòng này xa hoa lộng lẫy. Ngược lại, “Sảng Ấp Trai” rất đơn giản. Tường quét vôi màu trắng, nền xi măng sạch sẽ, cửa sổ lớn khiến căn phòng tràn ngập ánh sáng. Bên ngoài cửa sổ đều là cây trúc. Buổi trưa, ánh nắng chiếu qua lá trúc lấp lánh. Bên cửa sổ là một bàn sách, trên bàn là một ngọn đèn làm bằng thân cây trúc. Một chiếc giường gỗ kê sát vào bờ tường, vỏ chăn màu xanh lục nhàn nhạt được thêu tay bốn con tiên nga, sải cánh dài trên tầng mây. Trên tường treo một bức tranh vẽ cây trúc đen rất sống động. Bức tranh không có tiêu đề, cũng không đề tên người vẽ, nhưng xem ra là tác phẩm của chủ nhân gian phòng này.
Đúng vậy, nơi này rất mộc mạc giản dị, nhưng lại toát ra vẻ cao nhã, khiến con người có cảm giác hòa nhập vào thiên nhiên. Liễu Địch rất thích màu xanh lục mát mắt của gian phòng. Buổi tối nằm trên giường, nghe giai điệu của lá trúc, ngắm nhìn hình bóng của cây trúc và cây hải đường giao nhau trên tấm rèm cửa màu xanh nhạt, Liễu Địch mới hiểu hết hàm nghĩa của hai từ “Sảng Ấp”(mát mẻ). Những lúc như vậy, cô bất giác cảm thán trong lòng: “Người viết ra những câu đối tuyệt tác như Hải Thiên, không biết là bậc kỳ tài như thế nào?”
Sau khi khám phá “Hải Thiên Thư Ốc”, sự ngưỡng mộ của Liễu Địch về “kỳ tài” Hải Thiên càng tăng thêm mấy phần.
“Hải Thiên Thư Ốc” là một phòng sách nhỏ. Bên trong ngoài một cái bàn và một cái ghế, bốn bề đều là giá sách. Liễu Địch phát hiện, sở thích đọc sách của Hải Thiên khác thầy Chương. Ở đây đa phần là sách tôn giáo, chính trị, địa lý…Những loại sách này gần như vắng bóng trên giá sách của thầy Chương.
Ngoài ra, nơi này không có một cuốn liên quan đến văn học, văn học cổ điển, văn học hiện đại hay những tác phẩm vô danh mà người nước ngoài thích sưu tầm. Không như giá sách của thầy Chương, đều là tác phẩm kinh điển.
Nhưng cũng khó trách, giáo sư Tô chuyên nghiên cứu văn học cổ điển, “Kim Thạch Ốc” của ông có rất nhiều sách văn học cổ điển nên con trai ông cần gì sưu tập mấy thứ đó. Liễu Địch tùy tiện mở ra xem, cô phát hiện mỗi cuốn sách đều có gạch chân những câu cần nhấn mạnh hay viết lời nhận xét. Liễu Địch thấy nét chữ quen quen, nghĩ kỹ mới nhận ra giống chữ viết trên các câu đối ở Trúc Ngâm Cư, đều là bút tích của Hải Thiên. Liễu Địch không thể tưởng tượng, một người còn trẻ tuổi sao có thể đọc nhiều sách như vậy?
Sau đó, Liễu Địch tình cờ phát hiện ở một góc giá sách một quyển có tên gọi “Hải Thiên kỳ ngữ”. Đó là một cuốn sách không dày không mỏng, Liễu Địch xem ngày tháng, cuốn sách xuất bản từ bảy năm trước. Cô mở trang đầu tiên, đập vào mắt cô là tấm hình một chàng trai trẻ. Chàng trai có mái tóc đen, bờ trán rộng, sống mũi cao. Điểm thu hút nhất là đôi mắt, đôi mắt đen nhánh, sáng ngời, tràn đầy sức sống, toát ra nội hàm phong phú và nhiệt huyết của tuổi trẻ. Đây là một gương mặt tương đối sáng sủa và nam tính. Liễu Địch bị người trong ảnh hoàn toàn thu hút.
Sau đó, cô nhìn thấy dòng chữ giới thiệu tác giả bên cạnh tấm ảnh: ”
Hải Thiên, nam, 21 tuổi, nguyên quán Giang Tô, hiện học khoa Trung văn đại học Bắc Kinh. Từ nhỏ yêu thích văn học, từng có vô số bài viết trên các báo và tạp chí. Là người có cách nhìn độc đáo, khả năng quan sát tinh tế, văn phong sắc bén, tình cảm chân thực. Được coi là tác giả trẻ có triển vọng nhất trên văn