i nhan sắc như tiên, đặt tên là Tiên Dung. Tiên Dung rất đẹp, song tự nguyện không lấy chồng, chỉ ham thích phong cảnh, thường đi du lịch khắp nơi trong nước. Thuở ấy, ở làng Chử Xá có người tên là Chử Cù Vân và con trai tên là Chử Đồng Tử. Nhà họ Chử vốn nghèo lại càng thêm sa sút sau một trận cháy, trong nhà chỉ còn mỗi một chiếc khố. Hai cha con phải thay phiên nhau mà mặc mỗi khi ra ngoài. Khi người cha bị bệnh nặng sắp mất, dặn con giữ khố lại, còn cứ chôn mình xác trần. Chử Đồng Tử không nỡ để cha chết trần truồng, dùng chiếc khố độc nhất liệm cha mà đem chôn. Từ đó Chử Đồng Tử không có gì che thân, đợi đến đêm mới đi ra câu cá, ban ngày thì dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền để bán cá hoặc xin ăn. Một hôm, thuyền rồng chở công chúa Tiên Dung đến vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy cờ quạt, người hầu rầm rộ, Chử Đồng Tử hoảng sợ, chui vào bụi lau ở bãi cát bờ sông, nấp mình xuống đó rồi phủ cát lên che người. Thuyền rồng ghé vào bờ, Tiên Dung lên chơi trên bãi, thấy cảnh thanh tú, sai người hầu quây màn ở bụi lau để làm nơi ình tắm, đúng ngay vào chỗ Chử Đồng Tử nấp. Đến khi Tiên Dung xối nước, cát trôi để lộ thân hình trần truồng của người trai lạ. Nghĩ nhân duyên do là trời xui khiến, nàng công chúa cưới anh chàng trần như nhộng ngay trên sông. Tin đưa về kinh đô, Hùng Vương giận dữ lắm. Tiên Dung biết vua cha tức giận, sợ không dám về, bèn cùng chồng mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Lâu dần mở mang thành chợ lớn, gọi là chợ Hà Thám, có phố xá khách buôn nước ngoài lui tới giao thương ngày càng phồn thịnh. Chử Đồng Tử một lần cùng khách buôn đị đến một hòn núi giữa biển gọi là núi Quỳnh Tiên, thuyền ghé lấy nước ngọt, Chử Đồng Tử vui chân trèo lên cái am nhỏ trên núi gặp một đạo sĩ trẻ tên là Phật Quang. Chuyện trò ý hợp tâm đầu, Chử Đồng Tử theo lời Phật Quang giao vàng nhờ khách buôn đi mua hàng còn mình thì ở lại đây học đạo. Đến khi thuyền trở lại, Chử Đồng Tử theo về đất liền. Khi từ giã, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cái gậy, một cái nón và bảo: “Đây là vật thần thông”. Về đến nhà Chử Đồng Tử truyền đạo lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán để cùng chồng đi tìm thày học đạo. Một hôm trời tối, hai vợ chồng đi đã mệt mà chưa thấy nhà cửa đâu, mới dừng bước lại, cầm gậy che nón nằm dưới mà nghỉ. Vào khoảng nửa đêm, tự nhiên chỗ ấy nổi lên thành quách, cung điện bằng châu ngọc và kho tàng đầy đủ của cải, màn gấm chiếu hoa, không thiếu một thứ gì. Lại thêm tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ lính hầu xum xít quanh hai vợ chồng. Sáng hôm sau, dân ở quanh vùng đều lấy làm kinh dị, mang hương hoa thực phẩm đến xin làm tôị Họ vào thành thấy các quan văn võ, lính tráng tấp nập đông đảo như một nước riêng. Hùng Vương được tin báo cho là con gái làm loạn, vội phái quân đi đánh. Đoàn quân sĩ nhà vua gần tới nơi, bộ hạ Tiên Dung xin ra chống cự, nàng cười mà bảo rằng: “Tất cả mọi việc đều do ở trời chứ không phải tự ta. Ta đâu dám cự lại phụ vương. Sống hay chết đều nhờ ở trời, dẫu ta có bị phụ vương giết cũng không dám oán hận”. Trời đã tối, quân của Hùng Vương không kịp tấn công, dừng lại đóng ở bãi Tự Nhiên, cách đối phương một con sông lớn. Đến nửa đêm trời bỗng nổi bão, sóng gió cuồn cuộn, nhổ cây ở bãi, đại quân của Hùng Vương rối loạn. Trong chốc lát thành quách cung điện và bộ hạ của hai vợ chồng Tiên Dung đều bay cả lên trờị Sáng hôm sau, người ta kinh dị thấy chỗ đó đã hóa thành một cái đầm lớn. Dân chúng bèn lập đền thờ để cúng tế hàng năm, gọi đầm ấy là đầm Nhất Dạ. Dân gian đồn đại rằng trong đầm Nhất Dạ còn rơi rớt lại rất nhiều bảo vật của tiên. Người tu đạo cũng nhiều lần tiến vào tìm kiếm và thu hoạch được các loại dược thảo trên trăm năm tuổi cùng với một số vật thần thông. Thấy người tu đạo ra vào rất nhiều, những môn phái xung quanh đầm Nhất Dạ quyết định tập hợp nhau lại lập nên một phiên chợ để trao đổi các loại hàng hóa cũng như để thu thuế. Trải qua mấy trăm năm phát triển, phiên chợ đầm Nhất Dạ đã trở thành một trong những phiên chợ nổi tiếng nhất của giới tu đạo.
Thiên nhãn mở ra rồi, con đường Minh Khánh đi thuận lợi bình an đến không ngờ. Ngày đi đêm nghỉ, hắn tới đầm Nhất Dạ sớm hơn dự kiến gần một ngày. Minh Khánh đứng bên bờ nước nhìn ra. Đó là cả một vùng nước mênh mông, lau lách um tùm. Mặc dù trong đầm cũng có một số loại động vật nguy hiểm như cá sấu hay trăn, rắn và các loại côn trùng có độc nhưng Minh Khánh biết thứ đáng sợ nhất trong đầm không phải là chúng. Người ta sợ hãi đầm Nhất Dạ bởi vô số những cái bẫy chết chóc nhất của tự nhiên ẩn trong lòng nó. Đó chính là các vũng lầy. Dù là người tu đạo hay người bình thường, một khi rơi xuống những cái vũng đó thì hầu như đều phải mất mạng. Minh Khánh có đọc qua cuốn sách Nhập hồn của Kim Thiền chân nhân , một trong những thầy trừ tà nổi tiếng nhất suốt chiều dài lịch sử. Trong đó ông có kể về việc đi tìm thần xác của kẻ xấu số thông qua việc để linh hồn người chết nhập vào người. Ông cảm nhận được những cái chết thông qua ký ức của người xấu số. Một trong những cái chết khiến ông khiếp đảm nhất là cái chết gây ra bởi đầm lầy. Khi nạn nhân rơi xuống vùng sình lầy, dù là đứng yên hay cố gắng vùng vẫy thì cái chết cũng sẽ mau chóng đến với bạn. Chân không có điểm tựa, mọi nỗ lực “bơi” hay di chuyển đều là vô vọng. Chẳng mấy chốc kẻ xấu số bị đầm lầy nuốt chửng. Khi không còn có thể nín thở được nữa thì bùn và cát sẽ tràn đầy phổi, dạ dày. Chúng sẽ đúc tượng nạn nhân từ trong ra ngoài trước khi nhấn chìm người đó xuống phần lỏng hơn phía đáy của đầm lầy. Sau đó kẻ xấu số sẽ vĩnh viễn nằm lại dưới đó mà không một ai biết. Bởi thế trong đầm Nhất Dạ, tất cả mọi người đều phải đi thuyền. Minh Khánh đi dọc bờ khoảng năm dặm thì tìm thấy bến. Ở đó có rất nhiều người chờ đò tụ tập chỉ để kiếm ít đông bạc sống qua ngày. Minh Khánh chọn con thuyền nhỏ của một ông già tóc bắt đầu điểm bạc. Minh Khánh ngồi lên phía mũi thuyền, bắt đầu ngắm cảnh xung quanh. Ông lão dường như rất thuộc đường, chỉ trong chốc lát đã đưa con thuyền đi vào trong đám lau sậy. Qua lớp sương mù dày đặc, Minh Khánh phát hiện ra con thuyền đang đi trên một dòng nước rộng chỉ tầm chưa đến hai trượng, hai bên bờ là một rừng lau sậy um tùm. Thỉnh thoảng Minh Khánh lại thấy những con chim bay lên từ trong bụi khi nghe tiếng chèo khua nước. Hầu hết trong số chúng là cuốc hoặc một loại cò trắng nhỏ. Đôi khi là bói cá hoặc những loài chim lạ mà Minh Khánh không biết tên. Ông lái đò dường như đã thuộc lòng con đường. Mỗi lần gặp ngã ba hay khúc quanh ông đều điều chỉnh thuyền đi ở giữa dòng, tay chèo thậm chí không hề lắc lư. Đi qua một đoạn, Minh Khánh nhìn thấy một dãy những ngôi mả đắp cao nằm gọn gàng bên bờ nước. Chúng dường như đẫ có từ rất lâu rồi. Những hàng chữ trên tấm bia đá đã mờ đến nỗi đôi mắt tinh của Minh Khánh cũng không nhận ra. Hắn cất giọng hỏi ông chèo thuyền: -“Ông ơi, những ngôi mộ này là của ai mà nằm tận trong này hả ông?” Ông lái đò cười khà khà hỏi lại: “Cậu mới đến đây lần đầu đúng không?” -“Vâng” Ông ta lại hỏi: “Thế cậu đã nghe về vua Lí Na