ng sách chuyên ngành, anh nghĩ sẽ chẳng thể làm được gì nếu không có sự trợ giúp này. Và quả là ngớ ngẩn khi đi mua mới toàn bộ số sách đó, nên cuối cùng anh phải đến thư viện. Đã có thời anh nắm khá chắc những kiến thức cơ bản về xây dựng và hóa giải các mật mã, nhưng đó là chuyện của mười năm trước đây, vì vậy trước hết anh đọc qua một cuốn sách cơ bản về mật mã. Anh quyết định rằng bước đầu tiên nên làm là quyết định xem loại mật mã nào chứa trong chuỗi bazơ của loài virus giống virus đậu mùa này. Nhìn chung mật mã có thể chia ra thành ba loại: mật mã thay thế, trong đó các chữ cái của thông điệp được thay thế bằng những chữ cái, biểu tượng hoặc con số khác; mật mã hoán vị, trong đó trật tự các từ trong thông điệp bị thay đổi; và mật mã chèn thêm, trong đó người ta chèn thêm một số từ vào giữa các từ của thông điệp. Những số lòi ra từ bụng Ryuji sau khi mổ, mà Ando có thể liên hệ đến từ tiếng Anh “ring” là một ví dụ tiêu biểu của mật mã thay thế đơn giản. Anh không mất nhiều thời gian cũng đoán được rằng mật mã trong virus phải thuộc dạng mật mã thay thế. Cái anh phải xử lý là một nhóm gồm bốn chữ cái, ATGC, tương ứng với bốn bazơ, vì vậy nhiều khả năng mật mã này bao gồm việc gán một ký tự cụ thể ột nhóm các chữ cái. Như thế giống với mật mã nhất. Giống mật mã. Khi ý nghĩ đó nảy ra trong đầu, nó khiến anh ngồi thẳng dậy và suy nghĩ. Mục đích cơ bản của một mật mã là chuyển tải thông tin từ một bên cho bên khác mà không để bất cứ bên thứ ba nào có thể biết được. Đối với các sinh viên, mật mã chẳng là gì khác hơn một trò chơi, một thứ khiến người ta suy nghĩ nát óc. Nhưng, ví dụ trong chiến tranh, khi tính chất nhạy cảm với kết quả giải mật mã có thể làm dấy lên một làn sóng xung đột, sử dụng một mật mã “giống mật mã” là thực sự quá nguy hiểm. Nói cách khác, cách để kẻ thù không phá được mật mã là làm cho chúng không giống như những mật mã nếu nhìn qua. Nếu bắt được một tên gián điệp của kẻ thù và phát hiện ra hắn ta mang theo một cuốn sổ có những dãy số đáng ngờ, thì có thể dám chắc đó là thông tin tối mật đã được mã hóa. Thậm chí cho phép khả năng đó chỉ là cái bẫy, thì khi một mật mã được xác định như thế, khả năng nó bị hóa giải tăng lên đáng kể.Ando cố suy nghĩ một cách logic. Nếu mục đích của một mật mã là để tránh bên thứ ba khỏi biết được, thì mật mã chỉ nên “giống mật mã” đối với người mà thông tin được dự định được chuyển đến. Nhìn vào bốn hai chữ cái được thêm vào chuỗi bazơ của virus, Ando thấy chúng hoàn toàn giống mật mã. Đó là ấn tượng ngay từ lần đầu tiên anh nhìn vào dãy ký tự ấy. Vậy thì tại sao lại như thế? Anh cố phân tích nguồn gốc của ấn tượng đó. Tại sao anh lại thấy nó giống-mật-mã? Không phải vì chưa bao giờ người ta phát hiện thấy sự lặp lại khó hiểu đó trong quá trình phân tích trình tự ADN. Mà là vì, sự lặp lại đặc biệt này dường như mang ý nghĩa. Nó hiện ra ở mọi nơi người ta nhìn vào chuỗi, cho dù người ta có cắt ra ở đâu. Nó giống như thể đang gây sự chú ý, bảo rằng, ta là một mật mã đây, kẻ đần độn kia. Do Ando đã có kinh nghiệm với những con số lòi ra từ bụng Ryuji, nên anh thấy chuỗi ký tự ấy dường như giống mật mã một cách đặc biệt. Nói cách khác, có lẽ từ “ring” có hai mục đích khi nó chui ra ngay lúc ấy: nó không chỉ nhằm cảnh báo cho Ando sự tồn tại của phóng sự Ring, mà nó cũng chính là một dạng báo trước. Như thể Ryuji muốn nói với anh, có thể tôi sẽ dùng lại mật mã khi tình huống cho phép, cậu cứ chờ đợi và đừng bỏ lỡ. Và có lẽ anh ta đã dùng dạng mật mã thay thế đơn giản nhất như một lời ám chỉ. Với chuỗi bazơ bí ẩn chỉ tìm thấy trong virus trong người Ryuji, có thể chắc chắn khi cho rằng chính anh ta là người gửi mật mã. Tất nhiên, sự thật không thể chối cãi là Ryuji đã chết và thi thể anh ta đã hóa thành tro, nhưng mẫu mô của anh ta vẫn còn ở trong phòng xét nghiệm. Hàng vô số những mẫu ADN của anh ta, thiết kế tạo nên cá thể Ryuji, vẫn còn giữ lại trong các tế bào của mẫu mô đó. Nếu ADN đó kế thừa ý chí của Ryuji, và đang cố diễn tả điều gì đó bằng những con chữ thì sao? Đấy là một giả thuyết vô lý hoàn toàn vô giá trị đối với một nhà giải phẫu như Ando. Nhưng nếu anh thành công trong việc biến những ký tự kia thành những từ có nghĩa bằng phương pháp thay thế, thì nó sẽ thắng tất cả những lời giải thích khác về tình huống này. Theo lý thuyết, có thể lấy ADN từ mẫu máu của Ryuji và dùng nó để tạo ra một cá thể giống hệt như Ryuji, một người nhân bản vô tính. Tập hợp ADN này mang ý chí của Ryuji và gây ảnh hưởng đến virus có trong máu, chèn vào một hoặc nhiều từ. Bỗng nhiên Ando cảm thấy thiên tài tuyệt đối và sự láu cá của Ryuji đằng sau chuyện này. Tại sao anh ta chỉ chèn thông điệp vào virus, một kẻ xâm nhập, mà không chèn vào tế bào hồng cầu của anh ta? Bởi vì, với kiến thức về y khoa của mình, Ryuji biết rằng ADN từ những tế bào khác sẽ không có cơ hội nào được phân tích. Anh đã biết rằng chỉ có thể dựa vào loại virus gây ra những cái chết, thông điệp mới được chạy qua máy giải mã ADN, nên anh ta tập trung nỗ lực vào ADN của virus. Do đó những từ mà anh ta gửi đi sẽ được tiếp nhận. Tất cả những điều đó cuối cùng dẫn Ando đến một kết luận. Vì với anh mật mã này trông giống một mật mã, nên về cơ bản nó không hoạt động như một mật mã thông thường. Mà chỉ vì ADN của Ryuji không còn cách nào khác để giao tiếp với bên ngoài. Chuỗi xoắn kép ADN được tạo thành từ bốn bazơ, các bazơ này được biểu diễn bằng bốn chữ cái ATGC. Ando không thể nghĩ ra cách nào khác để biết được thông điệp của nó ngoài việc kết hợp bốn chữ cái đó theo nhiều cách khác nhau. Cách này được chọn vì không còn cách nào khác cả. Đây là biện pháp duy nhất sẵn có mà Ryuji có thể sử dụng. Bỗng nhiên mọi nỗi tuyệt vọng mà Ando cảm thấy cách đây vài giây đã biến mất, thay vào đó là sự tự tin phấn chấn. Có lẽ mình có thể giải được giải được mật mã này. Anh muốn hét lên. Nếu ý chí của Ryuji, rơi rớt lại trong ADN của anh ta, đang cố nói với Ando, thì dường như rất có lý khi nghĩ rằng từ ngữ được sử dụng sẽ là những từ Ando dễ dàng hóa giải. Tại sao chúng phải khó hơn mức cần thiết? Ando quay lại và kiểm nghiệm dòng lý lẽ của mình để xem có kẽ hở nào trong suy luận của anh không. Nếu bước đầu tiên anh đi sai, thì anh sẽ mãi lang thang mà không bao giờ tìm ra câu trả lời. Anh không còn thấy việc mình đang làm là để giết thời gian nữa. Giờ đây, khi cảm thấy rằng mình thực sự có thể giải mã được thông điệp, anh nóng lòng muốn biết nó nói gì. Phần còn lại của buổi sáng, cho đến giờ ăn trưa, Ando làm việc với hai cách tiếp cận. Chuỗi bazơ mà anh phải xử lý là: ATGGAAGAAGAATATCGTTATATTCCTCCTCCTCAACAACAA Vấn đề đầu tiên là nên phân chia các ký tự này như thế nào. Anh thử chia chúng thành các nhóm hai ký tự và nhóm ba ký tự. Trước hết, nhóm hai ký tự: AT GG AA GA AG AA TA TC GT TA TA TT CC TC CT CC TC AA CA AC AA Coi một cặp ký tự là một đơn vị, bốn ký tự sẵn có sẽ ười sáu cặp kết hợp khả dĩ. Anh tự hỏi liệu một cặp có thể đại diện ột chữ cái không. Nhưng điều này ngay lập tức dẫn đến một câu hỏi khác: thông điệp này được viết bằng ngôn ngữ nào? Có lẽ không phải là tiếng N