ễ Lung cũng không ngoại lệ, người chết người bỏ trốn. Cho đến khi chiến tranh kết thúc mới có một số dân họ Mễ trở lại cố hương, Mễ Lung lúc này đã đổ nát tàn tạ. Tuy nhiên vẫn có vài gia đình họ Mễ chính tông dựng lại nhà cửa trên nền đất cũ của thôn Mễ Lung. Mễ Trị Văn sinh ra trong một xóm nhỏ đằng sau dốc Mễ Lung. Na Lan cố hồi tưởng hình ảnh di tích dốc Mễ Lung mà cô từng tham quan, nhưng không thể nhớ ra cái xóm nhỏ đằng sau dốc. Sở Hoài Sơn nói, sau những năm 80 của thời kỳ trước dốc Mễ Lung được coi là di tích khảo cổ cấp quốc gia, thì vài hộ còn sót lại trong thôn được chính quyền cho di dời vào nội thành Giang Kinh ở. Na Lan: Tôi đã đọc mọi tư liệu về Mễ Trị Văn, không thấy nhắc đến nơi sinh của lão, sao anh biết lão ra đời ở thôn Mễ Lung? Sở Hoài Sơn: Tôi đoán. Na Lan: Anh nói rõ hơn được không? Sở Hoài Sơn: Chắc cô biết mấy địa điểm mà Mễ Trị Văn từng gây án? Na Lan: Rải rác ở vài khu, huyện của Giang Kinh, không nhận ra có quy luật gì. Sở Hoài Sơn: Đánh dấu trên bản đồ, sẽ nhận ra quy luật. Anh lập tức gửi cho Na Lan sơ đồ nội ngoại thành Giang Kinh. Vậy là anh đã nghiên cứu từ lâu. Các địa điểm Mễ Trị Văn gây án đánh dấu + đỏ, nối liền bảy dấu đỏ này được một đường thẳng! Nếu kéo dài đoạn thẳng ấy thì nó sẽ đi xuyên qua dốc Mễ Lung! Sở Hoài Sơn: Cô là chuyên gia tâm lý, phải thạo hơn kẻ ngoại đạo là tôi. Mễ Trị Văn làm thế dù có ý thức hay không thì vẫn toát ra một điều, dốc Mễ Lung rất quan trọng đối với lão. Na Lan ngẫm nghĩ, nếu đúng là thế thì rất có thể xóm nhỏ bỏ hoang sau dốc Mễ Lung sẽ lưu lại dấu vết thời thơ ấu của Mễ Trị Văn. Dù chưa chắc chắn liên quan trực tiếp đến tên hung thủ thực sự kia, thì ít ra cũng là điểm xuất phát để đi sâu tìm hiểu. Na Lan: Tôi sẽ đến đó ngay. Sở Hoài Sơn rất kinh ngạc: Thời tiết này, cô đi ngay bây giờ ư? Na Lan nhìn ra, trời đã tối mịt, đèn phố mờ ảo trong màn sương dày đặc, cô hiểu rằng mình quá hấp tấp. Để ngày mai vậy! Nhưng hôm sau vẫn là sương mù nặng trĩu. Các chuyên gia nói bầu khí quyển bị ô nhiễm nặng nên sương độc còn tiếp tục hành hạ dân Giang Kinh từ ba ngày cho đến một tuần nữa. Không thể chờ đến ngày trời đẹp, hết giờ lên lớp buổi sáng Na Lan ngồi tàu điện ngầm tuyến số 6 đi dốc Mễ Lung. Ra khỏi thành phố, tàu ngầm trườn lên mặt đất. Nhìn qua cửa sổ, sương mù đã loãng hơn, có thể nhìn thấy cột điện và nhà cửa đằng xa thấp thoáng trong sương. Rồi nhà cửa thưa dân, núi non thấp thoáng, Na Lan biết đã sắp đến dốc Mễ Lung. Ga tàu cách dốc Mễ Lung khoảng năm cây số, khách du lịch tham quan mọi ngày thường phải đi xe buýt hoặc taxi đến di tích. Cô gọi taxi của một công ty đáng tin cậy, đưa cho anh lái xe xem sơ đồ mà Sở Hoài Sơn gửi cho cô tối qua. Anh ta ngạc nhiên, “Chỗ đó hoang vu không người ở, cô đến làm gì?” Na Lan mỉm cười, “Khảo cổ!” Nếu không vì đúng hôm vắng khách thì có lẽ taxi đã từ chối cô. Lái xe đành lên đường, chạy chừng hai mươi phút thì đến một vùng nhà cửa đổ nát, xe dừng lại. “Đây rồi. Cô có cần tôi chờ không?” Na Lan đã tính sẵn, bèn nói,”Tôi chưa rõ mình sẽ nán lại đây bao lâu. Hay là anh cứ cho tôi số di động, khi nào tôi xong việc sẽ gọi, nhờ anh đến chở tôi quay lại.” Yêu cầu không có gì quá đáng, tất nhiên anh lái xe đồng ý. Hơn chục ngôi nhà gạch và gỗ kết hợp nằm rải rác trong khoảng một dặm vuông hợp thành cái xóm nhỏ này, Na Lan kết luận sau khi đi quanh khắp một lượt. Cỏ dại mọc um tùm, tuy đã lâu không có người ở nhưng nhà cửa vẫn khá vững chắc không có nguy cơ đổ sập. Chứng tỏ sau chiến loạn năm xưa, dân thôn Mễ Giang không hề sống tạm bợ, họ đã chăm chỉ vun đắp cho nơi này. Nếu không vì họ ở quá gần dốc Mễ Lung khiến chính phủ buộc phải di dời thì đến nay khung cảnh vẫn cứ như cũ. Mặt tiền các ngôi nhà không hề ghi tên chủ nhân, biết tìm “di tích” của Mễ Trị Văn ở đâu? Na Lan đã lường trước điều này nên chỉ còn cách tùy cơ ứng biến vậy. Ba mươi năm trước, khi các gia đình di chuyển, họ đã dọn sạch tất cả, chỉ còn lại nhà cửa sân vườn cùng vài đống gạch ngói vỡ. Tuy nhiên nó không sạch tuyệt đối vì vẫn có dấu vết con người trong những năm gần đây, những hộp cơm, túi nhựa, lon bia… vứt bừa bãi, thậm chí có cả quần lót chưa kịp mặc lại và những cái bao cao su không thèm xử lý. Na Lan đi khắp thôn khoảng một giờ, vào sáu bảy ngôi nhà, không phát hiện thấy điều gì đáng kể, cô thoáng nghĩ hôm nay có khi phải tay không trở về. Sau đó thì sao? Sẽ lại đến cầu khẩn Mễ Trị Văn và nghe lão cười chế nhạo? Cô lại vào một ngôi nhà hoang khác. Lúc nãy cô chú ý thấy nhà này không giống các nhà gần kề, tuy quy mô xấp xỉ nhau nhưng tình trạng rất xập xệ, xem chừng bỏ hoang lâu hơn. Bước vào trong thấy rất nham nhở, tường vữa lở lói tứ tung, nền nhà đầy bụi rác và gạch ngói vụn, đồ dùng cũ nát chất thành đống, tựa hồ vội vã tháo chạy khỏi thôn chứ không phải di chuyển một cách có trật tự như các hộ khác. Na Lan đương nhiên để ý quan sát nhà này rất tỉ mỉ. Tiếc rằng, sau nửa giờ cô lại dần thất vọng. Đồ đạc cũ nát không nói lên điều gì về chủ nhân. Trong ngôi nhà này cũng có một số rác mới, nhưng không thuộc loại Na Lan muốn tìm. Cô bỗng nảy ra một ý, đồ dùng cũ nát kia ít nhiều cũng phản ánh con người và cá tính của chủ nhân, cô bèn lấy đèn pin ra soi. Ở bếp, nhặt được vài mảnh bát đĩa vỡ, già nửa cái vung nồi gốm, đều có hoa văn, chứng tỏ gia đình này trước kia tương đối khá giả, chủ nhân thuộc loại tinh tế, có lối sống trang nhã. Trong buồng ngủ kê một cái bàn nhỏ rất tinh xảo, đã gãy hai chân nhưng chất gỗ còn tốt, mặt bàn và ngăn kéo mài xoa nhẵn nhụi, xem ra không phải nhà nông bình thường. Gầm bàn la liệt những mảnh gương vỡ. Đây chắc là cái bàn dùng cho việc trang điểm? Từ nhỏ tới lớn, Na Lan chưa từng nhìn thấy mẹ dùng bàn trang điểm, thế mà cách đây bao nhiêu năm, ở nơi này đã xuất hiện bàn trang điểm, chứng tỏ nữ chủ nhân có ý thức về khuôn mặt, da dẻ, đầu tóc. Nhưng những điều này liên quan gì đến Mễ Trị Văn? Mễ Trị Văn! Dấu vết của lão ở đâu? Một gian buồng ngủ khác, kê cái giường đơn cũ nát, các mảnh gỗ lả tả dưới đất. Và một mẩu vải trắng. Na Lan cúi xuống kéo mẩu vải ra. Vải trắng ố vàng, nhưng chưa thật cũ kỹ như các đồ vật khác trong nhà. Là một mảnh vải to. Mảnh vải trắng lốp, chưa có dấu vết của thời gian. Tim Na Lan đập nhanh dần. Cô nghĩ đến vụ án “ngón tay khăn máu”, nghĩ đến cái khăn dính máu, nghĩ đến vệt máu đỏ trên nền khăn trắng tinh. Và mím môi kéo thật mạnh, được cả một mảnh vải trắng khá lớn. Lật mảnh vải lên. Bên dưới không có gì. Đúng hơn là, không có thứ gì giá trị, chỉ có hai viên ngói dễ dàng bắt gặp ở bất cứ đâu trong thôn xóm bỏ hoang này. Giả sử có cặp trai lén lút làm tình thì họ sẽ mượn tạm tấm vải để hoàn thành cuộc khám phá tối nay, khỏi cần để ý hai viên ngói làm gì. Nhưng Na Lan chợt nghĩ, gạch ngói vỡ chỉ lăn lóc ngoài tường ngoài sân, trừ phi mái nhà sụp xuống thì trong nhà mới có ngói vỡ. Huống chi, đây lại không phải ngói vỡ mà là hai viên ngói nhỏ vuông vức hoàn chỉnh. Cô lật hai viên ngói lên, trên mỗi viên đều khắc một ký tự. Ký tự kỳ quái, cô từng trông thấy trong cuốn nhạc phổ của Mễ Trị Văn, là ký hiệu ghi nốt nhạc, âm giai và thế tay chơ