n hỏi vài điều… chuyện của chị Vu Ninh,” “Thế thì cháu phải thất vọng rồi.” Bà thở dài. Na Lan sững người. Bà đã sẵn sàng từ chối? “Bác ạ, cháu…” “Tôi không có ý xua cháu đi, nhưng tôi cho rằng cháu đã hiểu lầm rồi. Là Ninh Ninh chán sống, mắc chứng trầm cảm một thời gian, tôi đã khuyên nhủ nó mãi nhưng không được.” Bà lại thở dài, rồi đưa ống tay áo lên chấm nước mắt. Bà bảo Na Lan vào nhà ngồi, rồi lặng người không nói được nữa. Na Lan bước vào, nhanh tay khép luôn cửa vì sợ sương giá tràn vào nhà. “Cháu thực tình không muốn nhắc đến chuyện của chị Vu Ninh khiến bác phải buồn. Nhưng vì có liên quan đến một vụ án khác…” Bà hơi sửng sốt, chứng tỏ tư duy vẫn rất nhanh nhẹn. Bà gật đầu như đã hiểu ra, rồi lại lắc đầu, “Chắc cháu nói về thằng cha mất hết tính người ấy?” Bà liên tưởng đến Mễ Trị Văn. Na Lan nói, “Nếu bác không tiện nói về lão.,..” “Có gì mà tiện hay không tiện? Hắn là kẻ bệnh hoạn, một thằng điên! Ninh Ninh nhà này xấu số nên gặp phải kẻ ấy.” Bà trào nước mắt. Na Lan định im lặng, nhưng rồi lại đánh liều hỏi, “Bác nói gặp phải nghĩa là sao ạ? Cháu được biết biên bản ghi chép về vụ án là, Vu Ninh học năm thứ ba Đại học Tài chính Kinh doanh, tham gia hoạt động đoàn thể rồi quen Mễ Trị Văn, xem ra là việc ngẫu nhiên.” Có lẽ Na Lan là người cuối cùng trên đời này tin ở sự kiện ngẫu nhiên. Nhưng khi số phận đã bỡn cợt con người thì có thể còn bao nhiêu việc tuân theo các quy tắc khoa học nữa đây? Bà mẹ Vu Ninh hỏi lại cô, “Cháu đã biết những gì về chuyện của Ninh Ninh?” “Cháu chỉ biết đại khái đến thế.” Đúng là Na Lan đã thuộc lòng các tư liệu mà Sở Hoài Sơn tra cứu được. “Và còn một điều nữa, ngày trước từng có bài báo viết, bạn bè nhớ lại rằng Vu Ninh là một hạt nhân văn nghệ của trường, hát hay múa đẹp.” “Nó còn biết chơi nhạc cụ dân tộc, đàn cổ, đàn tranh, đàn tỳ bà… đều biết ít nhiều.” Bà nhẹ nhàng nói. Na Lan đã nhận ra mối liên hệ, “Mễ Trị Văn biết chơi nhạc cụ dân tộc?” Cô cùng nghe nói cách gảy cổ cầm và đàn tranh na ná nhau, biết một thứ là sẽ biết cả. “Không chỉ biết chơi, mà hắn còn chơi rất hay.” Bà mẹ hít vào một hơi dài. “Cho nên hắn trở thành thầy dạy cổ cầm cho Vu Ninh.” Lại là một tình tiết chưa ai biết, hệt như chuyện của Đổng Bội Luân. Na Lan thốt lên, “Lão thực bỉ ổi! Lợi dụng việc dạy đàn để làm càn.” Bà mẹ Vu Ninh tư lự mất một lúc, “Phải nói là… thằng cha ấy vô cùng bệnh hoạn, nhưng… chuyện này chúng tôi chưa từng nói với ai, hôm nay thật khác thường, lần đầu tiên kể với cháu. Chẳng biết ma xui quỷ khiến ra sao, Vu Ninh tự dưng… thích thằng cha Mễ Trị Văn!” Vu Ninh đang tuổi hoa rực rỡ, có cảm tình với một gã trung niên khô cằn rồi bị hắn cưỡng bức nhưng chưa thành? Đây là cái logic gì vậy? Na Lan nhớ đến bệnh án thần kinh của Mễ Trị Văn, lão rêu rao rằng các nạn nhân ấy và lão đều có mối gắn kết đồng điệu tâm hồn, thậm chí là có quan hệ yêu đương, thoạt đọc sẽ coi là những lời điên rồ, nếu bà mẹ Vu Ninh nói đúng, thì tức là Mễ Trị Văn đã nói thật? Na Lan dường như nghe thấy tiếng cười khẩy bất cần của lão, tôi có nói dối bao giờ đâu? Chính cô dựa vào cái chữ có được do linh cảm của tôi rồi tìm thấy hài cốt của Nghê Phượng Anh đấy thôi! Đổng Bội Luân thì sao? Hay cũng là câu chuyện giống thế này?! Na Lan tưởng tượng cảnh Đổng Bội Luân thông minh trong sáng, nõn nà như tiên nữ nhưng lại yêu lão ma nhập Mễ Trị Văn, cô vội lấy khẩu trang ra đeo, hình như sợ tâm trí mình bị sương giá độc hại xâm nhập rồi lú lẫn không biết đúng sai là gì nữa. Nhưng, tại sao Mễ Trị Văn lại làm hại những cô gái mà trái tim đã thuộc về lão? Tại sao lão lại phải làm hại những người mà lão nói là có tâm hồn đồng điệu với mình? Làm thế nào để nhìn rõ toàn bộ diện mạo của Mễ Trị Văn? Ngồi trên tàu điện ngầm, Na Lan nhắn tin cho Sở Hoài Sơn: Càng tin Mễ Trị Văn không phải là hung thủ vụ án “ngón tay khăn máu”, tôi càng cảm thấy lão bí hiểm khó lường. Tại sao lão lại biết vị trí hài cốt của nạn nhân? Nếu lão không phải thần tiên thì chắc chắn có người nói cho lão biết. Cho nên việc cấp bách nhất là phải tìm ra tên sát thủ vẫn nhởn nhơ ngoài xã hội. Tuy không biết Mễ Trị Văn đã quen kẻ ấy từ khi nào, nhưng loạt vụ án “ngón tay khăn máu” đã trải suốt ba mươi năm, cả hai có thể là cố nhân lâu năm, cần tìm hiểu về lai lịch Mễ Trị Văn để từ đó lần ra tên bạn cũ của lão. Tin nhắn tràng giang đại hải, nhưng Sở Hoài Sơn chỉ đáp lại hết sức ngắn gọn: Lai lịch Mễ Trị Văn, một con số 0. Na Lan thở dài. Không có một thông tin nào về tiền sử lai lịch Mễ Trị Văn. Chẳng phải là tin mới. Ba Du Sinh cũng từng nói thế, đây là một trong những khó khăn của vụ án. Na Lan ngao ngán. Lẽ nào bế tắc hoàn toàn rồi? Cô lại bấm bàn phím: Lẽ nào không có cách gì? Sở Hoài Sơn: Đã nghe nói đến dốc Mễ Lung chưa? Dốc Mễ Lung, Mễ Trị Văn. Giữa hai chữ này có liên quan gì chăng? Dốc Mễ Lung ở ngoại thành phía bắc Giang Kinh, là một địa danh mang tính tiêu biểu cho thành phố này. Nhờ phát hiện di tích một nền văn minh cổ xưa ở đây mà Mễ Lung trở thành một thánh địa khảo cổ học nổi tiếng cả nước. Vùng đất chứa đựng bề dày lịch sử này có quan hệ sâu xa ra sao với lão già đậm đặc tà khí từ đầu đến chân như Mễ Trị Văn? Sở Hoài Sơn lại nhắn thêm một tin nữa: Có biết xuất xứ của cái tên dốc Mễ Lung không? Na Lan không phải là dân Giang Kinh chính gốc, nhưng cũng từng tham quan di tích Mễ Lung và có nghe về nguồn gốc cái tên này. Dốc Mễ Lung đối diện với sông Thanh An chín khúc, gọi là “dốc” nhưng thực ra chỉ là một khoảnh đất phẳng, hiền hòa, địa thế hơi cao hơn đồng bằng bên dưới, ở giữa có hai dốc nhỏ gồ lên. Người thời cổ định cư trên dốc này và trồng trọt chăn nuôi ở dưới thấp, như thế, dù sông Thanh An nước dâng họ cũng vẫn an toàn. Vào mùa nước nổi, nước sông tràn lên chỗ cao, người thời cổ liền đắp “lung”, tức là xe bờ xung quanh để trữ nước lại, tiếp tục trồng lúa trên đó, dần dà hình thành cái tên dốc Mễ Lung. Về sau, dụng cụ dùng để xay thóc được chế tạo ở đây, quan cai trị địa phương lại lấy tên Mễ Lung đặt luôn cho nó, bởi vậy Mễ Lung còn có nghĩa là “cối xay thóc”. Sở Hoài Sơn: Còn có một lai lịch khác về dốc Mễ Lung, liên quan đến họa sĩ Mễ Thị thời Bắc Tống. Về già, ông Mễ Thị định cư ở Giang Nam, thế hệ con cháu thì dần dà lưu lạc bốn phương để tránh chiến loạn, họ di cư đến ngoại thành Giang Kinh, sinh sống ở dốc Mễ Lung bấy giờ đã vắng bóng người. Nơi này phong thủy tốt, đất đai màu mỡ, dần phát triển đông đúc, phồn vinh. Họ đặt tên khu vực này là thôn Mễ Gia, về sau có thêm rất nhiều người họ khác đến cư trú, bèn đổi là thôn Mễ Lung, dân chúng thành Giang Kinh hễ nhắc đến rẻo đất cao cao ấy, lại gọi luôn là dốc Mễ Lung. Tin nhắn khá dài, khiến Na Lan chìm trong suy nghĩ. Thôn Mễ Gia có còn không? Có thể là do gen di truyền của Mễ Thị, hoặc do bầu không khí ham học được duy trì tốt đẹp, bao năm qua thôn Mễ Gia đã xuất hiện rất nhiều tú tài cử nhân, có người lên kinh thành và các nơi khác làm quan, nên dân cư thưa dần. Thời kháng chiến, Giang Kinh rơi vào cảnh rối loạn, trong thành có tô giới Anh, Pháp nên thành phố biến thành cô đảo, ngoại thành thì bị gót sắt của quân Nhật giày xéo, thôn M