Chúng tôi nhìn nhau im lặng trong vài giây rồi tôi cất tiếng:
-Anh Somers này biết nhiều hơn là anh ta muốn nói ra.
-Anh nghĩ thế à?
-Hẳn là như vậy, vì anh ta không làm sao đứng ngay cửa toa mà không thấy ông Dwerrihouse được. Không thể nào.
-Anh bạn ạ, có một chuyện có thể được đấy.
-Chuyện gì thế?
-Là anh đã ngủ quên và mơ thấy tất cả câu chuyện.
-Có thể nào tôi mơ thấy việc thiết lập một đường hỏa xa ngánh mà tôi chưa từng nghe nói đến không? Có thể nào tôi mơ thấy hàng trăm chi tiết nhỏ nhặt về kinh doanh mà tôi không hề quan tâm đến không? Có thể nào tôi mơ thấy chính xác 75.000 bảng Anh không?
-Có lẽ anh đã thấy trên báo hoặc nghe nói đến việc đó lúc còn ở nước ngoài. Có thể lúc đó anh không để ý nhưng tên của các nhà ga dọc đường hỏa xa đã gợi cho anh nhớ lại những chi tiết đó trong giấc mơ.
-Thế còn vụ cháy trong ống khói lò sưởi của căn phòng xanh thì sao? Chẳng lẽ tôi cũng nghe nói đến vụ đó lúc ở nước ngoài à?
-À không, việc này thì tôi phải công nhận là khó giải thích.
-Và còn hộp xi-gà thì sao?
-A, trời đất, lại còn hộp xi-gà nữa chứ. Đó là một việc khó chối cãi. Chuyện này thật bí ẩn, nó cần một thám tử tài ba hơn tôi nhiều để tìm ra sự thật. Thôi, có lẽ chúng ta nên trở về thì hơn.
Không đầy một tuần sau tôi nhận được một thư của ông bí thư Công ty hỏa xa Đông Anglian mời đến dự một buổi họp hội đồng đặc biệt trong vài ngày tới. Thư không nêu lý do và cũng không cáo lỗi về việc làm mất thì giờ của tôi, nhưng tôi chắc là họ đã nghe nói tới vụ dò hỏi của chúng tôi về ông giám đốc mất tích nên muốn chính thức tra gạn tôi về việc đó. Vì vẫn còn là khách của biệt thự Dumbleton nên tôi đồng ý lên London dự buổi họp và Jeff cùng đi với tôi. Tôi nhận thấy ban giám đốc Công ty Đông Anglian gồm 12 hoặc 14 vị ngồi nghiêm nghị quanh một bàn to màu xanh lá cây trong một căn phòng tối.
Được ông chủ tịch đón tiếp niềm nở (ông này nói ngay là việc dọ hỏi của tôi về ông Dwerrihouse đã đến tai ban giám đốc, vì thế họ ước muốn được tham khảo với tôi về vấn đề đó), chúng tôi được mời ngồi vào bàn và theo đúng thể thức cuộc chất vấn diễn tiến.
Trước hết tôi được hỏi xem có biết ông Dwerrihouse không và tôi đã quen biết ông ấy bao lâu? Trường hợp gặp mặt tôi có nhận diện được không? Rồi tôi được hỏi đã gặp ông ấy lần cuối cùng lúc nào? Tôi đáp:
-Vào ngày 4 tây tháng 12, 1856.
Tôi lại được hỏi đã gặp ông ấy vào ngày đó tại đâu. Tôi đáp:
-Trên toa hạng nhất chuyến tốc hành 4g15.
Rằng ông ấy lên toa lúc tàu vừa rời London và đã xuống ở ga Blackwater. Ông chủ tịch muốn biết xem tôi có chuyện trò với người đồng hành ấy không nên tôi đã thuật lại mọi điều ông Dwerrihouse nói theo như trí nhớ.
Cả hội đồng chăm chú lắng nghe trong khi ông bí thư ghi chú. Tôi đưa ra hộp xi-gà và nó được chuyền từ tay người này sang tay người kia, tất cả đều nhận ra nó. Không ai hiện diện mà lại không nhớ hộp xi-gà đơn giản với những mẫu tự bằng bạc. Sau khi tôi đã kể hết mọi chuyện, ông chủ tịch thì thầm với ông bí thư, ông này nhấn vào một nút chuông bằng bạc và Somers được đưa vào phòng. Anh ta được chất vấn thật kỹ giống như tôi. Anh ta nói biết ông Dwerrihouse rất rõ không bao giờ lầm lẫn được, rằng anh ta có đi theo chuyến tốc hành 4g15 vào buổi chiều hôm đó, rằng anh ta có nhớ tôi vì đặc biệt chiều hôm đó có một, hai toa hạng nhất trống nên anh ta đã theo lời yêu cầu của tôi chọn cho tôi một toa riêng. Anh ta chắc chắn rằng tôi đã ở một mình trong toa suốt cuộc hành trình từ London đến Clayborough. Anh ta sẵn sàng tuyên thệ rằng ông Dwerrihouse không có mặt trong toa với tôi hay bất cứ toa nào khác. Anh ta nhớ rõ đã xem xét vé của tôi ở Blackwater và nhớ chắc rằng không có ai khác trong toa của tôi lúc đó, rằng nếu có người thứ hai thì không thể nào anh ta không trông thấy được, và nếu người thứ hai đó lại là ông Dwerrihouse thì anh ta đã lẳng lặng khóa cửa và chạy báo ngay cho ông xếp ga rồi. Đó là những lời khai của Somers, thật rõ ràng, chắc chắn khiến hội đồng có vẽ bối rối. Ông chủ tịch nói:
-Ông Langford, ông đã nghe rõ lời khai của nhân chứng này, nó trái ngược lại với các lời khai của ông. Vậy ông nghĩ thế nào?
-Tôi chỉ có thể lặp lại những điều tôi đã nói khi nãy là tôi hoàn toàn chắc chắn sự thật những điều tôi thấy cũng như Somers chắc chắn những điều anh ta nói.
-Ông nói rằng ông Dwerrihouse xuống ga Blackwater, rằng ông ta có chìa khóa riêng. Ông có chắc là ông ta không dùng chìa khóa riêng để mở cửa toa xuống ga trước khi anh Somers tới soát vé không?
-Tôi chắc chắn là ông ấy không hề rời khỏi toa cho tới khi xe lửa đã vào hẳn sân ga và các hành khách khác cùng xuống ga. Tôi còn thấy ông ấy được một người bạn đến đón.
-Thật sao? Ông có thấy rõ người đó không?
-Thấy rõ lắm.
-Ông có thể tả lại hình dáng không?
-Được chứ. Người đó thấp, tóc hơi vàng, râu mép và râu cằm rậm ri, mặc một bộ đồ bằng hàng nỉ màu xám. Tôi đoán tuổi ông ta khoảng 38, 40 gì đó.
-Ông có thấy ông Dwerrihouse rời nhà ga với ông đó không?
-Tôi không biết được. Tôi chỉ thấy hai người đi trên sân ga và đến đứng nói chuyện dưới một ngọn đèn gas. Sau đó thì tôi mất dấu họ một cách đột ngột và rồi tôi phải lên tàu đi tiếp cuộc hành trình.
Ông chủ tịch và ông bí thư bàn bạc nho nhỏ với nhau. Các giám đốc cũng thì thầm với nhau. Một vài người nhìn anh soát vé vẽ nghi ngại. Tôi nhận thấy rằng những chứng cứ của tôi không thể cãi chối được và cũng như tôi họ nghi ngờ người soát vé là đồng lõa với ông Dwerrihouse. Ông chủ tịch hỏi:
-Somers, anh đã theo chuyến 4g15 hôm đó tới đâu?
-Dạ, tôi đi suốt chuyến từ London đến Crampton.
-Sao lại không có ai thay cho anh ở Clayborough? Tôi nhớ là luôn luôn có người thay ở ga Clayborough mà?
-Dạ,trước kia thì như vậy nhưng sau có điều lệ mới hiệu lực từ giữa hè năm ngoái là nhũng nhân viên soát vé trên các chuyến tốc hành đều phải đi suốt chuyến.
Ông chủ tịch quay sang ông bí thư nói:
-Tôi nghĩ là ta nên kiểm tra lại việc này trong quyển lịch trình. Ông bí thư lại nhấn cái nút bạc nhờ tùy phái cho mời ông Raikes. Nhờ một, hai câu nghe lõm được tôi đoán ông Raikes là một trong các ông phó bí thư.
Ông ta đến, một người nhỏ nhắn, tóc vàng, mắt lanh lẹ, cử chỉ nôn nóng, râu mép và râu cằm rậm ri. Ông ta chỉ ló mặt ở cửa vào phòng họp và được nhờ mang đến một quyển lịch trình nào đó trên một kệ trong một phòng nào đó, rồi ông ta cúi chào và quay đi.
Ông ta chỉ hiện diện trong một chốc nhưng sự ngạc nhiên nhìn thấy ông ta quá lớn lao và đột ngột đến nổi chỉ sau khi cửa đã đóng lại sau lưng ông ta tôi mới bật ra tiếng được. Tôi bật nhỏm dậy và nói to:
-Đó là người đã đến gặp ông Dwerrihouse ở ga Blackwater.
Cả phòng kinh ngạc. Ông chủ tịch nghiêm nghị và nóng nảy nói:
-Ông Langford, hãy cẩn thận những điều ông nói.
-Tôi chắc chắn về diện mạo của