Ly Chu chen vào: “Đã phái rất nhiều người đi rồi, nhưng y đều từ chối.”
Tri Mạt giải thích: “Các ông không phái đúng người, Yêu tộc trọng nghĩa khí, Ứng Long cũng vì thế mà rời bỏ Hiên Viên, muốn mời y quay lại, tự nhiên cũng phải bắt đầu từ đây, ông nên nhờ vương cơ đi mời Ứng Long về mới được.” Nói rồi, Tri Mạt thầm kinh ngạc, nói về thu phục nhân tâm, trong thiên hạ không ai hơn được Hoàng Đế, chuyện ông ta nhìn thấu được, lẽ nào Hoàng Đế lại nhìn không ra? Tại sao Hiên Viên liên tiếp thất bại, lũ lụt khắp nơi mà Hoàng Đế không vời Ứng Long?
Bắt gặp ánh mắt hờ hững của Hoàng Đế, Tri Mạt lập tức cúi đầu, chỉ nghe Hoàng Đế nói: “Ứng Long đúng là mãnh tướng, nhưng thân phận của y không hợp làm chủ soái, không thể khiến ba quân cúi đầu tuân theo. Chúng ta nhất định phải tìm một người vừa danh chính ngôn thuận, lại vừa có thể khiến Ứng Long kính phục để làm chủ soái.”
Tượng Võng nôn nóng hỏi: “Phải tìm ai đây? Xem ra chỉ mình Thanh Dương điện hạ là phù hợp, nhưng điện hạ đang bị trọng thương.”
“Con gái ta, Hiên Viên vương cơ – Hiên Viên Bạt.”
Ly Chu và Tượng Võng đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ tới Luy Tổ. Mấy người con của Luy Tổ tuy tính tình khác biệt, nhưng đều được hưởng thiên phú từ cha mẹ, rất giỏi cầm quân đánh trận, ngay đến Xương Ý tính tình hòa nhã cũng là tướng tài thiên bẩm.
Hoàng Đế lại nói: “Con nhỏ A Hành có phần giống ta và A Luy thời trẻ, tiếc rằng chẳng có được hùng tâm tráng chí như cha mẹ khi xưa. Nếu chẳng phải lần này ta bất ngờ bị thương, phải nhờ vào y thuật của nó mới kéo dài mạng sống, e rằng nó đã rời khỏi Hiên Viên từ lâu rồi. Trong mắt nó, ta không phải người cha tốt, nếu ta hạ lênh cho nó cầm quân ra trận, nhất định nó sẽ cự tuyệt. Nếu bức bách quá, có lẽ nó sẽ trực tiếp chiếu cáo thiên hạ, đoạn tuyệt tình cha con với ta, như trước đây từng làm với Thiếu Hạo không chừng.”
Nghĩ đến ân oán mấy ngàn năm giữa Luy Tổ và Đông Ngư thị, Ly Chu và Tượng Võng không nén được tiếng thở dài: “Vậy phải làm sao mới thuyết phục được vương cơ đây?”
Hoàng Đế đưa mắt nhìn Tri Mạt: “Ông có thể thuyết phục nó.”
Tri Mạt làm thinh không đáp.
Hoàng Đế lại nói: “Không phải ta muốn ép buộc con gái mình, nhưng giữa ta và Xi Vưu, giữa Hiên Viên và Thần Nông chỉ có một bên được sống mà thôi. Cái họa vong quốc diệt tộc đã rành rành trước mắt, chúng ta còn đường nào để đi đây? Tri Mạt, lẽ nào ngươi quên nỗi đau như cắt mình từng trải qua rồi ư? Lẽ nào ngươi muốn con dân Hiên Viên cũng phải chịu đọa đầy đau đớn như vậy ư? Lẽ nào ngươi quên chúng ta vì cái gì mà lập nên Hiên Viên quốc rồi ư?
Tri Mạt ngẩng phắt lên, chằm chằm nhìn thẳng vào mắt Hoàng Đế, đêu bên đều nhận ra đối phương đã đi guốc vào bụng mình. Hoàng Đế hiểu Tri Mạt đã phát giác ra mưu kế của mình, Tri Mạt cũng hiểu Hoàng Đế đã nhận ra ông ta phát giác. Nhưng Hoàng Đế chẳng hề lo lắng, bởi ông đã dùng Tri Mạt đến đường cùng, thuật chế ngự lòng người của Hoàng Đế, quả là vô địch thiên hạ.
Một hồi lâu, Tri Mạt quỳ sụp xuống, “Thần sẽ đi thuyết phục vương cơ.”
Một phong thư lạ hoắc được đưa lên Triêu Vân phong, nói là gửi cho vương cơ, nhưng trên thẻ trúc lại chẳng ghi gì ngoài một dòng địa chỉ, quay sang hỏi A Hành: “Vương cơ có bạn bè gì ở đó chăng?”
A Hành lắc đầu: “Không có.”
Chu Du nghe nói liền quăng tấm thẻ trúc lên án thư, nào ngờ bên trong lại rơi ra một mảnh vải rách: “Ồ, cái gì đây? Hình như là thư tuyệt mệnh dùng máu viết thành đó.”
A Hành vội cầm lên xem. Vết máu đã ngả nâu, nhưng sức mạnh sụt sôi giữa từng nét chữ vẫn phả vào rát mặt.
Bao nhiêu năm đã trôi qua, nhưng cảnh tượng bi tráng ngày ấy vẫn rõ mồn một trong trí nàng như mới hôm qua. Một trăm chiến sĩ Hiên Viên tộc xé quần áo trên người lấy vải, dùng máu mình viết thư vĩnh biệt gửi người thân, rồi xông thẳng vào Tuân Sơn, sau cùng, kẻ bị giết, người chôn thân trong biển lửa. Chính bọn họ đã dùng tuổi xuân của mình đổi lấy tính mạng cho Xương Phó và bốn ngàn dũng sĩ Nhược Thủy tộc.
A Hành định thần xem lại, thấy phong thư này ký tên Nhạc Uyên. Nàng còn nhớ gã thiếu niên đó, kẻ đầu tiên đứng ra khẳng khái tâu trình, ổn định lòng quân; kẻ đầu tiên xông vào Tuân Sơn, bình thản đón nhận cái chết; sau cùng còn can đảm buông tay không kháng cự, dốc toàn bộ linh lực hóa thành tín hiệu cảnh báo với nàng, chỉ rõ phương hướng của Chúc Dung, bằng không, e rằng cả nàng và Xi Vưu cũng không tránh khỏi cái chết.
Một thiếu niên như thế lại hy sinh âm thầm lặng lẽ nhường kia, vĩnh viễn chẳng thể được người đời ghi nhớ và ca tụng như Chúc Dung, nhưng chính những thiếu niên dũng mãnh vô danh ấy, mới chèo chống được quốc gia này.
A Hành vội gọi A Tệ hạ sơn, theo địa chỉ ghi trên thư mà tìm đến.
Quân đội của Xi Vưu đã tiến đến Hắc thủy. Để tránh chiến hỏa, dân chúng đua nhau đổ dồn về phía Tây, ngoài Hiên Viên thành đầy những dân chạy loạn, họ không có tiền ở khách điếm, cũng không có bạn bè người thân để nương nhờ, đành phải sống cảnh màn trời chiếu đất. Ban ngày trời ấm áp, kể cũng không tới nỗi nào, nhưng ban đêm trời lạnh thấu xương, những người này ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, lại lặn lội đường xa tới đây, đa phần đều không gắn gượng nổi mà bỏ mạng. Không có nghĩa địa, xác họ được vùi ngay tại chỗ.
Đám nhỏ còn chưa biết thế nào, đau khổ, vẫn ôm bụng đói nô đùa ầm ĩ, chạy nhãy giỡn hớt giữa những nấm mồ, nhưng tiếng cười rộn rã chẳng bợn ưu sầu của chúng chỉ càng làm nổi bật cái gọi là nhân thế vô tình.
A Hành trông thấy một bé gài cao xấp xỉ Tiểu Yêu đang thẫn thờ đứng trước một nấm mồ, bèn tiến lại. Cô bé ngẩng lên trông thấy A Hành, lẩm bẩm nói: “Đói quá.”
“Cha cháu đâu?”
“Đi đánh trận rồi.”
“Thế còn mẹ?”
Bé trỏ nắm đất trước mặt, ngây thơ đáp: “Mẹ đang ngủ bên dưới.”
A Hành xót xa ẵm đứa nhỏ lên, nhìn khắp sườn đồi đều là những kẻ rách rưới bần hàn, nàng chợt thấy choáng váng không sao chịu nổi, lẽ nào đây là Hiên Viên mỹ lệ nơi nàng sinh ra và lớn lên ư?
Tri Mạt bước lại gần, đưa cho bé gái một tấm bánh.
“Cám ơn ông.” Bé cẩn thận bẻ tấm bánh thành hai phần, nhét một nửa vào ngực áo, còn mình chỉ ăn một nửa.
Tri Mạt thắc mắc: “Sao cháu chỉ ăn một nửa?”
“Một nửa đề dành cho mẹ cháu, mẹ cũng đói lắm.”
Tri Mạt cười gượng: “Ngoan quá, cháu cứ ăn đi, khi nào mẹ cháu tỉnh dậy, ông lại mua cho hai mẹ con cái khác.”
“Thật không?”
“Thật mà.”
Bấy giờ cô bé mới hớn hở lấy nửa tấm bánh kia ra ăn ngấu nghiến.
A Hành đã làm mẹ, trông thấy cô bé như vậy, lòng lại càng đau xót khôn tả. Trên ngọn núi này còn bao nhiêu đứa nhỏ thế này? Trên toàn Hiên Viên còn bao nhiêu đứa nhỏ thế này nữa?
Nhìn đám người trên sườn núi, vẻ mặt Tri Mạt đầy đau xót: “Vương cơ chưa từng trải qua cảnh nghèo hèn loạn lạc, nhưng thần từ nhỏ đã lênh đênh lưu lạc, nếm đủ đắng cay, mới hiểu thế nào là: thà làm chó thời bình, hơn làm người thời loạn.”
A Hành nhìn quanh, “Dù khi trước chưa hiểu, thì giờ cũng hiểu rồi.”
“