- Ra đây Khoa ở đâu?
- Ở đường Bạch Đằng, với ông bác.
- Từ đường Bạch Đằng lên chỗ Minh Hoa hơi xa. Khoa đến đây bằng gì?
- Tôi đi bộ.
- Đi bộ?
Minh Hoa tròn xoe mắt. Nó đâu có biết khoảng cách từ chỗ tôi ở với nhà nó đâu có thấm tháp gì so với quãng đường tôi lang thang hằng đêm trên phố vắng.
Tôi cười:
- Tôi đi bộ quen rồi.
Và như để chứng minh câu nói của mình, tôi tuyên bố:
- Cứ vài ba ngày tôi sẽ ghé đây chơi.
Minh Hoa vui vẻ:
- Ừ, khi nào buồn Khoa cứ ghé. Bá viết thư cho Minh Hoa bảo Khoa mới ra đây nên chưa có bạn.
Tôi giữ đúng lời hứa. Từ hôm đó, cứ khoảng vài ba ngày tôi ghé chơi với chị em Minh Hoa một lần. Tình bạn đã giúp tôi đỡ trống trải.
Tôi bớt thấy lẻ loi. Tôi không còn cô độc, mặc dù đêm đêm tôi vẫn đắm mình trong tiếng dương cầm vọng ra từ cửa sổ nhà nàng Stéphanette để thấy hồn mình phiêu phưởng tận đâu đâu.
Bác Đán thấy tôi dạo này đã thôi bỏ quên chìa khóa trong phòng, không khỏi ngạc nhiên:
- Con đã thôi quên trước quên sau?
- Dạ.
- Bác thấy dạo này con vui hẳn?
- Dạ.
Bác Đán nhìn tôi lom lom:
- Hình như gần đây con thường đến nhà bạn gái?
Câu hỏi đột ngột của bác Đán khiến tôi vô cùng sửng sốt. Nhưng rồi tôi hiểu ngay: Chắc thấy tôi dạo này ăn trưa xong thường tếch ra khỏi nhà nên bác nghi ngờ. Tôi đành chép miệng:
- Dạ.
- Chuyện đó không có gì sai! – Bác Đán thở dài – Nhưng dẫu sao cũng đừng quên chuyện bài vở nghe con. ánh mắt mỹ nhân xưa nay đã đánh đắm bao nhiêu anh hùng.
Rồi bác cảm khái ngâm nga:
- Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.
Tôi vội vàng cải chính:
- Nhỏ này chỉ là bạn, bác ạ. Bạn bè bình thường thôi. Nó quê ở Đại Lộc, người yêu của bạn con.
Bác Đán giật mình:
- Con bé đó là người yêu của bạn con?
- Dạ.
Mắt bác Đán trố lên:
- Thế sao con lại làm thơ đòi thương nhớ nó?
Bác Đán ôm đầu:
- Ôi, con làm vậy là không được nghe con!
Tôi đỏ mặt:
- Bác ơi, làm gì có chuyện đó.
- Con đừng chối! – Bác Đán nhún vai – Chính bác đã đọc bài thơ con làm cho con bé đó…
Đến đây thì tôi chợt vỡ lẽ.
- Bác lầm rồi! – Tôi quýnh quíu thanh minh – Bài thơ đó con viết cho đứa khác.
- Đứa khác? – Bác Đán giật mình lần thứ hai – Còn đứa nào nữa? Con mới ra đây chưa được một tháng sao quen nhiều con bé vậy?
Câu nói hàm ý trách móc của bác Đán khiến tôi dở khóc dở cười. Cuối cùng, để bác Đán khỏi hiểu sai về mình, tôi đành rụt rè thú nhận:
- Con bé này cháu không quen, bác ạ.
- Không quen sao con lại thương nhớ nó? – Bác Đán nhìn tôi đăm đăm – Chắc con nhìn thấy nó từ xa?
Tôi cắn môi:
- Con cũng chưa nhìn thấy nó.
Bác Đán vò đầu:
- Thế thì lạ thật!
Tôi lí nhí giải thích:
- Con nghe tiếng đàn của nó và con thấy… bóng nó in trên rèm cửa.
- Chỉ vậy mà con đã thương, đã làm thơ cho nó? – Giọng bác Đán đượm lo lắng – Như vậy con quá lãng mạn. Người lãng mạn khi ra đời khó sống lắm con ơi. Con cố quên con bé đó đi!
Bác Đán nói đúng. Không cần đợi đến lúc ra đời, ngay từ bây giờ tôi đã thấy khó sống. Tôi cứ nghĩ mãi về nàng Stéphanette trong khi nàng không biết tôi là ai. Đầu óc tôi chứa đầy những mơ ước vẩn vơ. Tôi sung sướng với những hình ảnh do tôi nắn nót vẽ ra trong tâm trí rồi đau khổ khi sực nhớ chúng chỉ là tưởng tượng. Tôi đã thức ròng rã đêm này qua đêm khác. Chỉ để làm thơ cho nàng Stéphanette. Đến nay tôi đã viết được gần chục bài.
Tôi biết bác Đán lo cho tôi. Nhưng tôi không đủ dũng cảm làm theo lời bác. tôi biết mình khó lòng “quên con bé đó đi”.
Nghe bác khuyên, tôi ngoan ngoãn “dạ, thưa bác” và hôm sau tôi lại chôn chân trên lề đường Nguyễn Du để rồi về nhà chong đèn thức khuya lắc khuya lơ.
Sáng dậy, thấy mắt tôi đỏ kè, bác Đán chỉ biết lắc đầu.
*****
Tôi làm hàng đống thơ tình. Làm rồi để đó. Sau khi gửi bài thơ “Giấc mơ của chàng chăn cừu” cho tuần báo Bạn Trẻ, thấy bặt vô âm tín, tôi không màng gửi thơ đăng báo nữa.
Tất nhiên tôi cũng không đủ can đảm xếp những bài thơ thành tàu lượn để ném vào cửa sổ nhà nàng Stéphanette. Nếu muốn, tôi cũng không có cơ hội. Rèm cửa nhà nàng luôn luôn buông kín.
Rốt cuộc, chỉ có tôi đọc thơ tôi. Tôi soi nỗi lòng mình vào những vần thơ, thấy sao mà buồn da diết. Chị em Minh Hoa giúp tôi bớt quạnh hiu nhưng không thể giúp tôi nguôi sầu muộn.
Tôi là chàng chăn cừu cô đơn. Và tôi cũng là chàng thi sĩ cô đơn, yêu trong bóng tối, làm thơ trong nóng tối và tên tuổi cũng suốt đời chìm trong bóng tối.
Nhưng Hồng Hà đã chứng minh ngược lại. Nó luôn luôn phá vỡ định kiến của tôi.
Một buổi sáng, tôi lò dò vào lớp, thấy tụi bạn dồn mắt vào tôi, reo ỏm tỏi:
- Ê, nhà thơ tới kìa!
Tôi ngơ ngác nhìn quanh, chẳng hiểu gì.
Thằng Bội huơ tờ báo Bạn Trẻ trên tay:
- Bài thơ “Giấc mơ của chàng chăn cừu” hay quá!
Đến lúc đó tôi mới thấy tờ báo trên tay thằng Bội. Và câu nói của nó làm tôi nghe như có một luồng điện chạy dọc sống lưng:
- Mày nói gì?
- Mày đừng giả vờ! – Bội chìa tờ báo ra trước mặt tôi, toét miệng cười – Hồi nãy chính thằng Hồng Hà đem tờ báo này vô lớp, nó bảo mày in thơ trong này!
Tôi cầm tờ báo, nôn nóng lật từng trang, hồi hộp dò tìm.
Khi bài thơ “Giấc mơ của chàng chăn cừu” đập vào mắt, tôi phải chớp lia chớp lịa để tin rằng mình không nhìn lầm.
Đến khi biết chắc đó chính là bài thơ của mình, tôi bỗng rơi vào một trạng thái kỳ lạ, một cảm giác đê mê trước đây tôi chưa từng trải qua.
Tôi cầm tờ báo trên tay, ngất ngây sung sướng. Và tôi sẽ còn thừ mặt ra như thế hằng giờ nếu Hồng Hà không bước lại vỗ vai tôi:
- Mày… mày là thi sĩ mà giấu bạn bè hả?
Tôi nói như người trong mơ:
- Tao là thi sĩ?
- Còn gì nữa! – Hồng Hà cười rạng rỡ – Bài thơ của mày làm tụi Pascal lác mắt!
Hồng Hà không bỏ lỡ cơ hội để đề cao “tụi trường Việt mình”. Nhưng lần này tôi biết nó không cố tình bốc tôi lên mây. Bởi vì ngay lúc đó thằng Đông Anh mon men lại gần tôi:
- Chiều nay mày ghé nhà tao chơi đi!
- Chi vậy?
Đông Anh nói với vẻ trang trọng:
- Tao sẽ giới thiệu mày với gia đình tao.
- Giới thiệu tao? – Tôi chỉ tay vào ngực, mặt ngẩn tò te – Tao có gì đâu mà giới thiệu?
- Sao lại không có gì! – Mặt Đông Anh nghiêm trang – Mày là nhà thơ. Mày là một thiên tài, là Rimbaud của Việt Nam.
Arthur Rimbaud là thiên tài thi ca vĩ đại không chỉ của nước Pháp mà của toàn thế giới. Trong giờ học văn chương Pháp, những bài thơ “Voyelles” và “Fêtes de la faim” của ông khiến tôi ngẩn ngơ thán phục. Tôi không tin ngoài Rimbaud ra, còn ai trên trái đất này có được những ý tưởng dị thường và rạng rỡ như vậy.
Với tôi, Rimbaud luôn luôn là ngôi sao Bắc Đẩu trong vòm trời thi ca nhân loại. Thế mà bây giờ thằng Đông Anh đem một ngọn đèn hạt đỗ lập lòe không biết tắt lúc nào là tôi so sánh với vì sao sáng : Di đó, bảo tôi không sững sờ sao được.
Tôi ngượng nghịu:
- Thôi đi! Mày nói quá!
Đông Anh vẫn khăng khăng:
- Tao nói thật đó. Trong mắt tao, mày là Rimbaud.
Lần này thì tôi không phản đối. Nó nói “trong mắt nó” có nghĩa trong trần gia