ậu và nói:
– Bài ngụ ngôn này không khó lắm đâu.
– Ồ! Khó lắm chứ!
– Tôi thấy dễ. Nghe bà đọc ban nãy, tôi đã nhớ cả rồi.
Cậu mỉm cười có ý nghi ngờ.
– Cậu có muốn tôi đọc lại cho cậu nghe không?
– Đọc làm sao được. Cậu cầm sách dò, tôi cố đọc xem có đúng không.
Cậu cầm sách nhìn, tôi đọc lại. Cậu chỉ phải chữa một hai tiếng tôi quên thôi. Cậu nói:
– Thế anh thuộc thực à?
– Không được thuộc lắm. Nhưng bây giờ tôi có thể đọc lại không sai.
– Anh làm thế nào mà thuộc được.
– Tôi nghe bà đọc, nghe một cách rất chăm chú, không để ý hoặc nhìn những vật xung quanh tôi. Cậu đỏ mặt, nhìn ra chỗ khác. Xong, hết thẹn, cậu bảo tôi:
– Tôi đã hiểu cách nghe của anh thế nào rồi. Tôi sẽ cũng nghe như anh. Nhưng anh làm thế nào mà được tất cả những tiếng ngổn ngang ấy trong óc? Nó cứ rối bời trong trí nhớ của tôi.
Tôi đã làm thế nào? Tôi cũng không biết vì không bao giờ tôi để ý đến điều đó. Tuy nhiên, tôi cũng theo kinh nghiệm của tôi, cắt nghĩa cho cậu nghe, tôi nói:
– Bài ngụ ngôn nói về cái gì? Về con cừu. Tôi bắt đầu nghĩ đến những con cừu. Rồi tôi nghĩ đến chúng nó làm gì? “những con cừu đang ở yên lành trong chuồng”. Tôi trông thấy những con cừu nằm và ngủ trong vườn, vì chúng được yên ổn. Và đã nhìn thấy chúng, tôi không quên được nữa.
Cậu nói:
– Phải đấy, tôi cũng trông thấy chúng: “những con cừu ở yên trong chuồng”. Tôi trông có con trắng, có con đen, tôi trông thấy cả những con cừu cái, cừu con. Tôi trông thấy cả chuồng rào giậu thưa.
– Như vậy cậu không quên được nữa chứ?
– Ồ! Không quên được.
– Thường thì ai giữ việc chăn cừu?
– Những con chó.
– Khi chúng không cần coi cừu, vì những con này đã được an toàn thì chúng làm gì?
– Chúng chả làm gì cả.
– Lúc đó chúng có thể ngủ được. Vậy ta nói: “những con chó nằm ngủ cả”.
– Chính thế! Dễ quá.
– Có phải dễ lắm không? Bây giờ, ta nghĩ đến cái khác. Ai thường coi cừu cùng với chó?
– Người chăn cừu.
– Nếu những con cừu được yên lành, người chăn cừu ngồi rôi, thì anh ta dùng thì giờ để làm gì?
– Để thổi sáo.
– Cậu có nhìn thấy không?
– Có.
– Vậy anh ta ở đâu?
– Dưới bóng cây du to.
– Anh ta chơi một mình phải không?
– Không. Anh ta chơi với những anh chăn cừu láng giềng khác.
– Bây giờ cậu đã trông thấy cừu, thấy chuồng, thấy chó và người chăn cừu. Vậy có thể nhắc lại không sai đoạn đầu bài ngụ ngôn được không?
– May ra thì được.
– Cậu cố nhắc lại xem.
Nghe tôi nói và cắt nghĩa bài học như thế nào cho chóng thuộc, Actơ nhìn tôi vừa cảm động vừa e sợ vì không tin điều tôi nói là thật. Tuy nhiên, sau vài giây ngập ngừng, cậu nhất định đọc:
– “Những con cừu ở yên lành trong chuồng. Những con chó nằm ngủ cả. Người chăn cừu ngồi dưới bóng cây du đang thổi sáo chơi cùng các bạn khác”. Xong cậu vỗ tay reo:
– Tôi thuộc hết, không sai chữ nào!
– Vậy cứ theo cách đó, cậu học các đoạn sau.
– Ừ! Với anh tôi tin rằng tôi có thể học thuộc hết được. A! Mẹ tôi sẽ sung sướng biết bao.
Rồi cậu theo cách học đoạn đầu, cậu tiếp tục đọc các đoạn sau.
Không tới mười lăm phút, cậu thuộc hết và đọc rất trôi chảy. Khi cậu đọc vừa xong, thì mẹ cậu ở trong ra, đứng sau chúng tôi.
Thoạt tiên, bà có ý không bằng lòng, tưởng chúng tôi họp nhau để chơi, nhưng Actơ không để bà hỏi, nói luôn:
– Mẹ ơi! Con thuộc rồi! Chính Rêmi đã dạy con học đấy!
Bà Miligơn ngạc nhiên nhìn tôi. Bà định hỏi tôi thì Actơ không chờ mẹ bảo, đọc luôn bài ngụ ngôn một mạch, không ngập ngừng và không sai chữ nào, đôi mắt sáng ngời đắc thắng.
Trong khi đó, tôi nhìn bà Miligơn, gương mặt kiều diễm của bà tươi hẳn lên, hai mắt long lanh ướt. Bà cúi xuống ôm lấy con hôn, không biết bà có khóc không. Actơ nói với mẹ:
– Những chữ suông không nghĩa lý gì, nhưng những vật thì người ta nhìn thấy. Rêmi bảo con nhìn thấy người chăn cừu với cây sáo của anh ta. Khi con học con không nghĩ tới mọi thứ chung quanh con, con chỉ nhìn thấy cây sáo của người chăn cừu và con nghe thấy cả điệu sáo thổi nữa. Mẹ muốn nghe con hát điệu đó không?
Rồi cậu hát, một bài điệu hơi buồn bằng tiếng Anh.
Continue……
Chương 12 – Má Barberin
Tám giờ sáng cửa mở ra chúng tôi nhìn thấy ngài quan tòa đi vào cùng với ông bạn thú y của chúng tôi muốn đích thân đến giải phóng cho chúng tôi.
Quan tòa bắt tay chúng tôi còn ông thú y ôm hôn chúng tôi.
– Thôi các bạn nhỏ lên đường mạnh giỏi nhé!
Chúng tôi vào làng này thảm hại thế nào thì ra đi oai hùng như thế, đầu ngẩng cao tay dắt bò. Những người nông dân đứng trước cửa nhìn chúng tôi với ánh mắt thân thiện.
Chẳng bao lâu chúng tôi tới ngôi làng mà trước đây tôi đã dừng lại cùng cụ Vitalis vào cái đêm đầu tiên của cuộc sống chung.
Từ đây chỉ còn phải qua một khoảng đất truông nữa thôi là tới cái dốc xuống Chavanon.
Qua con phố chạy qua làng một ý nghĩ bỗng nảy ra làm tôi phải bảo cho Mattia ngay..- Cậu biết đấy tớ đã hứa cho cậu ăn bánh xèo ở nhà má Barberin, nhưng muốn làm bánh xèo phải có bơ, bột và trứng.
– Ngon quá nhỉ.
– Ngon hẳn đi ấy chứ, rồi cậu sẽ thấy; cuộn lại ăn ngập miệng luôn. Nhưng ở nhà má Bar-berin chắc gì đã có bột và bơ vì má không giàu đâu, hay là ta đem tới?
– Phải đấy, ý hay đấy.
Tôi vào cửa hàng thực phẩm khô mua nửa ki-lô bơ, hai ki-lô bột, rồi chúng tôi tiếp tục đi.
Còn mười cây số, rồi còn tám, còn sáu; có điều lạ là càng đến gần má Barberin con đường càng dài ra chứ không như ngày tôi xa má.
Nhưng tôi vô cùng xúc động và bồn chồn, chốc chốc tôi lại xem đồng hồ.
– Nơi này đẹp đấy chứ? – Tôi bảo Mattia.
Chúng tôi đã tới đỉnh đồi nơi bắt đầu con đường dốc với nhiều đoạn chữ chi dẫn xuống Chavanon, con đường đi qua nhà má Barberin.
Chỉ vài bước nữa là chúng tôi tới nơi tôi đã xin phép cụ Vitalis được ngồi lên cái ụ đất nhìn về cái nhà mà tôi tưởng không bao giờ còn trông thấy nữa.
– Cầm dây dắt bò này. – Tôi bảo Mattia.
Tôi nhảy phắt một cái lên ụ đất: chẳng thấy gì thay đổi trong thung lũng của chúng tôi cả.
– Gì thế? – Mattia hỏi.
Nó đến gần tôi.
– Theo tay tớ chỉ này, – tôi bảo nó, – đấy là nhà má đấy.
Đúng lúc này một đám khói màu vàng bốc lên từ ống khói và vì không có gió nó bốc thẳng lên không trung theo dọc sườn đồi.
– Má Barberin thế là có nhà. – Tôi nói.
Một ngọn gió nhẹ thổi qua cây lá làm cột khói vỡ ra tỏa vào mặt chúng tôi: làn khói có mùi lá dẻ.
Bỗng nhiên nước mắt tôi ứa ra.
– Thôi đi xuống mau lên. – Tôi nói.
– Nếu má Barberin ở nhà thì ta làm sao thu xếp để má ngạc nhiên được nhỉ? – Mattia hỏi.
– Cậu sẽ vào trước: cậu nói là ông hoàng gửi tới cho má con bò, khi má hỏi ông hoàng nào, tớ sẽ xuất hiện.
Vừa tới chỗ ngoặt ngay trên căn nhà, chúng tôi nhìn thấy một chiếc khăn quàng trắng hiện.ra trong sân: đó là má Barberin, má mở cửa rào ra rồi đi về phía làng.
Tôi biết theo thói quen của má Barberin cửa chỉ cài then mà thôi, chúng tôi có thể vào trong nhà được; nhưng trước hết phải cho con bò vào chuồng đã. Tôi bèn đi vào chu
– Bài ngụ ngôn này không khó lắm đâu.
– Ồ! Khó lắm chứ!
– Tôi thấy dễ. Nghe bà đọc ban nãy, tôi đã nhớ cả rồi.
Cậu mỉm cười có ý nghi ngờ.
– Cậu có muốn tôi đọc lại cho cậu nghe không?
– Đọc làm sao được. Cậu cầm sách dò, tôi cố đọc xem có đúng không.
Cậu cầm sách nhìn, tôi đọc lại. Cậu chỉ phải chữa một hai tiếng tôi quên thôi. Cậu nói:
– Thế anh thuộc thực à?
– Không được thuộc lắm. Nhưng bây giờ tôi có thể đọc lại không sai.
– Anh làm thế nào mà thuộc được.
– Tôi nghe bà đọc, nghe một cách rất chăm chú, không để ý hoặc nhìn những vật xung quanh tôi. Cậu đỏ mặt, nhìn ra chỗ khác. Xong, hết thẹn, cậu bảo tôi:
– Tôi đã hiểu cách nghe của anh thế nào rồi. Tôi sẽ cũng nghe như anh. Nhưng anh làm thế nào mà được tất cả những tiếng ngổn ngang ấy trong óc? Nó cứ rối bời trong trí nhớ của tôi.
Tôi đã làm thế nào? Tôi cũng không biết vì không bao giờ tôi để ý đến điều đó. Tuy nhiên, tôi cũng theo kinh nghiệm của tôi, cắt nghĩa cho cậu nghe, tôi nói:
– Bài ngụ ngôn nói về cái gì? Về con cừu. Tôi bắt đầu nghĩ đến những con cừu. Rồi tôi nghĩ đến chúng nó làm gì? “những con cừu đang ở yên lành trong chuồng”. Tôi trông thấy những con cừu nằm và ngủ trong vườn, vì chúng được yên ổn. Và đã nhìn thấy chúng, tôi không quên được nữa.
Cậu nói:
– Phải đấy, tôi cũng trông thấy chúng: “những con cừu ở yên trong chuồng”. Tôi trông có con trắng, có con đen, tôi trông thấy cả những con cừu cái, cừu con. Tôi trông thấy cả chuồng rào giậu thưa.
– Như vậy cậu không quên được nữa chứ?
– Ồ! Không quên được.
– Thường thì ai giữ việc chăn cừu?
– Những con chó.
– Khi chúng không cần coi cừu, vì những con này đã được an toàn thì chúng làm gì?
– Chúng chả làm gì cả.
– Lúc đó chúng có thể ngủ được. Vậy ta nói: “những con chó nằm ngủ cả”.
– Chính thế! Dễ quá.
– Có phải dễ lắm không? Bây giờ, ta nghĩ đến cái khác. Ai thường coi cừu cùng với chó?
– Người chăn cừu.
– Nếu những con cừu được yên lành, người chăn cừu ngồi rôi, thì anh ta dùng thì giờ để làm gì?
– Để thổi sáo.
– Cậu có nhìn thấy không?
– Có.
– Vậy anh ta ở đâu?
– Dưới bóng cây du to.
– Anh ta chơi một mình phải không?
– Không. Anh ta chơi với những anh chăn cừu láng giềng khác.
– Bây giờ cậu đã trông thấy cừu, thấy chuồng, thấy chó và người chăn cừu. Vậy có thể nhắc lại không sai đoạn đầu bài ngụ ngôn được không?
– May ra thì được.
– Cậu cố nhắc lại xem.
Nghe tôi nói và cắt nghĩa bài học như thế nào cho chóng thuộc, Actơ nhìn tôi vừa cảm động vừa e sợ vì không tin điều tôi nói là thật. Tuy nhiên, sau vài giây ngập ngừng, cậu nhất định đọc:
– “Những con cừu ở yên lành trong chuồng. Những con chó nằm ngủ cả. Người chăn cừu ngồi dưới bóng cây du đang thổi sáo chơi cùng các bạn khác”. Xong cậu vỗ tay reo:
– Tôi thuộc hết, không sai chữ nào!
– Vậy cứ theo cách đó, cậu học các đoạn sau.
– Ừ! Với anh tôi tin rằng tôi có thể học thuộc hết được. A! Mẹ tôi sẽ sung sướng biết bao.
Rồi cậu theo cách học đoạn đầu, cậu tiếp tục đọc các đoạn sau.
Không tới mười lăm phút, cậu thuộc hết và đọc rất trôi chảy. Khi cậu đọc vừa xong, thì mẹ cậu ở trong ra, đứng sau chúng tôi.
Thoạt tiên, bà có ý không bằng lòng, tưởng chúng tôi họp nhau để chơi, nhưng Actơ không để bà hỏi, nói luôn:
– Mẹ ơi! Con thuộc rồi! Chính Rêmi đã dạy con học đấy!
Bà Miligơn ngạc nhiên nhìn tôi. Bà định hỏi tôi thì Actơ không chờ mẹ bảo, đọc luôn bài ngụ ngôn một mạch, không ngập ngừng và không sai chữ nào, đôi mắt sáng ngời đắc thắng.
Trong khi đó, tôi nhìn bà Miligơn, gương mặt kiều diễm của bà tươi hẳn lên, hai mắt long lanh ướt. Bà cúi xuống ôm lấy con hôn, không biết bà có khóc không. Actơ nói với mẹ:
– Những chữ suông không nghĩa lý gì, nhưng những vật thì người ta nhìn thấy. Rêmi bảo con nhìn thấy người chăn cừu với cây sáo của anh ta. Khi con học con không nghĩ tới mọi thứ chung quanh con, con chỉ nhìn thấy cây sáo của người chăn cừu và con nghe thấy cả điệu sáo thổi nữa. Mẹ muốn nghe con hát điệu đó không?
Rồi cậu hát, một bài điệu hơi buồn bằng tiếng Anh.
Continue……
Chương 12 – Má Barberin
Tám giờ sáng cửa mở ra chúng tôi nhìn thấy ngài quan tòa đi vào cùng với ông bạn thú y của chúng tôi muốn đích thân đến giải phóng cho chúng tôi.
Quan tòa bắt tay chúng tôi còn ông thú y ôm hôn chúng tôi.
– Thôi các bạn nhỏ lên đường mạnh giỏi nhé!
Chúng tôi vào làng này thảm hại thế nào thì ra đi oai hùng như thế, đầu ngẩng cao tay dắt bò. Những người nông dân đứng trước cửa nhìn chúng tôi với ánh mắt thân thiện.
Chẳng bao lâu chúng tôi tới ngôi làng mà trước đây tôi đã dừng lại cùng cụ Vitalis vào cái đêm đầu tiên của cuộc sống chung.
Từ đây chỉ còn phải qua một khoảng đất truông nữa thôi là tới cái dốc xuống Chavanon.
Qua con phố chạy qua làng một ý nghĩ bỗng nảy ra làm tôi phải bảo cho Mattia ngay..- Cậu biết đấy tớ đã hứa cho cậu ăn bánh xèo ở nhà má Barberin, nhưng muốn làm bánh xèo phải có bơ, bột và trứng.
– Ngon quá nhỉ.
– Ngon hẳn đi ấy chứ, rồi cậu sẽ thấy; cuộn lại ăn ngập miệng luôn. Nhưng ở nhà má Bar-berin chắc gì đã có bột và bơ vì má không giàu đâu, hay là ta đem tới?
– Phải đấy, ý hay đấy.
Tôi vào cửa hàng thực phẩm khô mua nửa ki-lô bơ, hai ki-lô bột, rồi chúng tôi tiếp tục đi.
Còn mười cây số, rồi còn tám, còn sáu; có điều lạ là càng đến gần má Barberin con đường càng dài ra chứ không như ngày tôi xa má.
Nhưng tôi vô cùng xúc động và bồn chồn, chốc chốc tôi lại xem đồng hồ.
– Nơi này đẹp đấy chứ? – Tôi bảo Mattia.
Chúng tôi đã tới đỉnh đồi nơi bắt đầu con đường dốc với nhiều đoạn chữ chi dẫn xuống Chavanon, con đường đi qua nhà má Barberin.
Chỉ vài bước nữa là chúng tôi tới nơi tôi đã xin phép cụ Vitalis được ngồi lên cái ụ đất nhìn về cái nhà mà tôi tưởng không bao giờ còn trông thấy nữa.
– Cầm dây dắt bò này. – Tôi bảo Mattia.
Tôi nhảy phắt một cái lên ụ đất: chẳng thấy gì thay đổi trong thung lũng của chúng tôi cả.
– Gì thế? – Mattia hỏi.
Nó đến gần tôi.
– Theo tay tớ chỉ này, – tôi bảo nó, – đấy là nhà má đấy.
Đúng lúc này một đám khói màu vàng bốc lên từ ống khói và vì không có gió nó bốc thẳng lên không trung theo dọc sườn đồi.
– Má Barberin thế là có nhà. – Tôi nói.
Một ngọn gió nhẹ thổi qua cây lá làm cột khói vỡ ra tỏa vào mặt chúng tôi: làn khói có mùi lá dẻ.
Bỗng nhiên nước mắt tôi ứa ra.
– Thôi đi xuống mau lên. – Tôi nói.
– Nếu má Barberin ở nhà thì ta làm sao thu xếp để má ngạc nhiên được nhỉ? – Mattia hỏi.
– Cậu sẽ vào trước: cậu nói là ông hoàng gửi tới cho má con bò, khi má hỏi ông hoàng nào, tớ sẽ xuất hiện.
Vừa tới chỗ ngoặt ngay trên căn nhà, chúng tôi nhìn thấy một chiếc khăn quàng trắng hiện.ra trong sân: đó là má Barberin, má mở cửa rào ra rồi đi về phía làng.
Tôi biết theo thói quen của má Barberin cửa chỉ cài then mà thôi, chúng tôi có thể vào trong nhà được; nhưng trước hết phải cho con bò vào chuồng đã. Tôi bèn đi vào chu