giò bỏ chạy.
Tường nói như một kẻ sành sỏi:
- Chú Đàn tỏ tình với chị Vinh đó.
Tôi nhún vai:
- Mày là nhóc con mà biết gì!
- Chính chú Đàn nói với em mà.
- Tỏ tình bằng tiếng kèn à?
- Ờ.
Nếu chú Đàn nói với nó thì đúng rồi! Tôi làm thinh một lát, lại thắc mắc:
- Sao cả tháng nay tao không thấy chú Đàn thổi kèn dưới gốc phượng nữa hở mày?
Hóa ra thằng Tường cũng từng thắc mắc y hệt tôi. Nó chép miệng:
- Em đã hỏi chú Đàn rồi.
- Chú bảo sao?
Tường cười khúc khích:
Chú bảo chị Vinh đã mê chú, chú không cần phải khản cổ “gặm bắp nướng” hằng đêm nữa.
12. Chim xanh
Chị Vinh mê chú Đàn không chỉ nhờ tiếng kèn.
Chị mê chú còn vì những bức thư tình nồng nàn của chú.
Lại cũng Tường kể với tôi. Thằng này có cái tật lớn là không bao giờ kể chuyện một lèo. Chuyện gì cũng vậy, nó cứ hôm nay he hé một chút. Có nhiều chuyện khi tôi nghe được phần sau thì đã quên béng mất phần đầu.
Người đưa thư cho chú Đàn dĩ nhiên là thằng Tường.
Tôi không hiểu tại sao chú Đàn không nhờ tôi. Tôi ghen tị nghĩ, nhưng rồi tôi tự giải đáp được ngay: Ba chị Vinh là thầy Nhãn, là thầy giáo chủ nhiệm lớp tôi, chú Đàn không nhờ tôi có lẽ sợ tôi khiếp vía thầy sẽ làm hỏng việc.
Khi nghe Tường kể, tôi công nhận chú Đàn tính toán hay thật.
Chú Đàn viết thư bỏ vào phong bì rồi lật áo thằng Tường lên, nhét phong thư ngang lưng quần, giấu sau vạt áo.
Buổi trưa, Tường chạy qua nhà chị Vinh, réo inh ỏi:
- Chị Vinh ơi, chị Vinh!
Chị Vinh bước ra:
- Có chuyện gì thế em?
Chú Đàn bày cho Tường cả chục câu trả lời:
- Chị cho mẹ em xin quả ớt.
- Chị cho mẹ em xin quả chanh.
- Chị cho mẹ em mượn chai xì dầu.
- ………………
Tùy theo câu trả lời của Tường mà chị Vinh đưa cho nó một quả chanh, một quả ớt hay một chai xì dầu, tay kia lật áo thằng Tường rút phong thư rồi lật đật giấu vào vạt áo của chị.
- Thế mày qua nhà mà thầy Nhãn không hay biết à? – Tôi thắc mắc.
- Biết chứ.
Tôi cắn môi:
- Thế thầy không hỏi gì sao?
- Có. Thỉnh thoảng thầy có hỏi “Con đi đâu đó Tường?”. Có hôm thầy hỏi “Con tìm chị Vinh làm gì vậy con?”.
Tôi rụt cổ:
- Nều tao là mày chắc tao tè ra quần rồi.
- Thầy chỉ ngồi trong nhà hỏi vọng ra thôi.
- Ngồi trong nhà hay ngồi đâu cũng vậy. – Lần này tôi vừa rụt cổ vừa rùng mình – Hễ nghe giọng thầy cất lên là tao muốn xỉu rồi.
Tường cười khì khì:
- Anh nhát gan quá.
Bị chê, tôi nổi khùng:
- Mày ngu quá! Tại giáo viên chủ nhiệm của mày là cô Trang. Nếu mày học thầy Nhãn như tao thử coi mày có nhát gan không!
13. Chim xanh gặp nạn
Chú Đàn gọi việc chuyển thư của người con trai đến người con gái là “làm chim xanh”.
Chú khen Tường “con là con chim xanh giỏi nhất thế gian” làm thằng nhóc sướng rơn.
Nhưng con chim xanh giỏi nhất thế gian đó cũng có ngày gặp nạn.
Chuyện Tường gặp nạn, cả tuần lễ sau nó mới bẽn lẽn kể tôi nghe. Tôi đã nói rồi, thằng này nó chẳng có chuyện gì chịu kể dứt một lần.
Hôm đó như mọi lần Tường nhét lá thư của chú Đàn vào lưng quần rồi vù qua nhà thầy Nhãn.
- Chị Vinh ơi, chị Vinh!
Tường đứng ngoài sân, kêu lớn. Nhưng lần này nó không thấy chị Vinh đâu.
Người từ trong nhà đi ra là thầy Nhãn.
Nhìn bộ mặt khó đăm đăm của thầy, lúc đó Tường mới biết thế nào là sợ hãi. Nó hoàn toàn bất ngờ, ruột gan như trôi tuột đi đâu mất. Nó chợt nhớ đến con rồng hai đầu canh giữ vườn táo vàng trong câu chuyện nó vừa đọc và nhìn lom lom vào cổ áo thầy, hồi hộp chờ một cái đầu thứ hai mọc ra từ chổ đó.
- Con tìm chị Vinh làm gì vậy con?
Thầy Nhãn lại gần và cất tiếng hỏi, giọng lạnh tanh.
Tường lấm lét liếc xuống vạt áo rồi ngước nhìn thầy:
- Dạ, con hỏi xin cho mẹ con quả chanh.
Ánh mắt thằng Tường đã tố cáo nó. Thằng Tường nói với tôi như vậy. Bàn tay thầy Nhãn lần theo tia nhìn của nó, mò vào dưới vạt áo.
Thầy rút lá thư ra khỏi lưng quần Tường rồi quay gót trở vào nhà, không nói một tiếng nào.
Mặt xanh như tàu lá, Tường đứng trơ giữa sân nắng có đến vài phút, tay chân cứng đờ, chỉ muốn khuỵu xuống.
Đến khi nó nhúc nhích được, nó bất chợt òa khóc.
Tường chạy về nhà, vẫn không ngừng nức nở cho đến khi chú Đàn đang chờ sẵn ở bụi chuối sau hè dang tay ôm lấy nó.
- Nín đi con. Có chuyện gì thế?
Nghe chú Đàn hỏi, Tường càng khóc to hơn. Câu hỏi giống như mũi dao khoét vào vết thương lòng của nó, nếu có thể xem tai nạn của nó xứng đáng để gọi là “vết thương lòng”. Và thế là nó khóc tức tưởi, khóc tồ tồ như vòi nước bị hỏng khóa.
Chú Đàn vén áo nó lên, không thấy là thư đâu, ngẫm nghĩ một lát rồi khẽ giọng hỏi:
- Con không gặp chị Vinh hở?
- Dạ… không… – Tường đáp qua tiếng khóc.
Chú Đàn thở ra:
- Con đừng khóc nữa.
Tường vẫn tiếp tục khóc, có lẽ nó cũng muốn ngưng lại nhưng không ngưng được. Con người ta khóc cũng giống như trời mưa. Chỉ khi nào hết nước thì trời mới thôi mưa và chúng ta mới thôi khóc.
Thằng Tường cũng vậy thôi. Nó khóc, khóc hoài. Nhưng dần dần tiếng khóc yếu đi, một hồi sau chuyển qua thút thít. Rồi tanh hẳn.
Lúc đó nó mới rảnh để lắp bắp:
- Thầy Nhãn…
Chú Đàn xoa đầu nó:
- Chú biết rồi, con không cần kể nữa.
Rồi chú đứng lên:
- Để chú xé giấy xếp cho con chiếc máy bay.
Chiếc máy bay giấy của chú Đàn khiến mặt thằng Tường nở ra. Nó phóng máy bay kiệng vòng vèo trong vườn và quên rất nhanh những giọt nước mắt vừa tắm ướt hai gò má nó.
Tôi tặc lưỡi, khi Tường kể xong:
- Mày ngu quá. Không phải chỉ đến khi nhìn ánh mắt của mày thầy Nhãn mới biết mày lận thư dưới vạt áo đâu.
Tường ngơ ngác:
- Thầy biết từ trước hở anh?
Tôi đá chân vào chân nó, giọng hiểu biết:
- Tao nghĩ thầy biết lâu rồi. Chả ai lại xin ớt, xin chanh, xin xì dầu hoài như thế. Có họa là hâm!
14. Gió mưa là bệnh của trời
Một hôm, tôi tò mò hỏi thằng Tường:
- Mày có nhớ mày đưa thư dùm chú Đàn bao nhiêu lần rồi không?
Tường véo môi, ngập ngừng:
- Mười mấy lần.
- Nhiều thế cơ à?
- Dạ.
Tôi nheo mắt:
- Thế có lần nào mày lén mở thư ra xem chú Đàn viết gì trong đó không?
- Có một lần. – Tường ngượng ngập đáp, mặt ửng lên như đột ngột tráng một lớp ráng chiều.
Tôi xích lại gần nó hơn:
- Chú Đàn viết gì trong đó vậy?
- Hình như là một bài thơ.
- Thơ à?
- Vâng.
- Thơ gì vậy?
- Em không biết.
- Thế mày có nhớ một câu nào không?
- Em nhớ được hai câu.
- Mày đọc tao nghe coi.
Tường đọc:
- Gió mưa là bệnh của trời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Tôi không biết đó là thơ Nguyễn Bính. Tôi chỉ thấy hai câu thơ hay hay, ngồ ngộ. Và tôi nhẩm hoài trong miệng để khỏi quên.
Suốt mấy ngày tôi chẳng biết làm gì với hai câu thơ đó, cho tới khi tôi chợt nhớ con Xin ngồi cạnh tôi trên lớp.
Xin là con bé xinh xắn, mặc dù hai gò má nó trổ đầy tàn nhang. Tôi, nó và thằng Sơn con ông Ba Huấn ngồi chung một bàn. Tôi ngồi chính giữa, nó ngồi bên phải, thằng Sơn ngồi bên trái.
Hằng ngày tôi và thằng Sơn vẫn hay trêu nó. Đang ngồi học, tôi thình lình quay sang nó:
- Ăn không, Xin?
- Ăn gì?
- Ăn xin chứ ăn gì!
Một lát đến thằng Sơn:
- Ôi, đói bụng quá! Ăn không, Xin?
- Ăn gì?
- Ăn xin!
Bị trêu “ăn xin”, lần nào con Xin cũng thút thít khóc. Nó giận dỗi ngoảnh mặt đi chổ khác, không thèm nói chuyện với bọn tôi.
Nhưng tính nó mau quên. Qua ngày hôm sau nó lại bị mắc lõm hai đứa tôi một cách dễ dàng. Nghe tôi hỏi “Ăn không, Xin?” nó lại láu táu “Ăn
Tường nói như một kẻ sành sỏi:
- Chú Đàn tỏ tình với chị Vinh đó.
Tôi nhún vai:
- Mày là nhóc con mà biết gì!
- Chính chú Đàn nói với em mà.
- Tỏ tình bằng tiếng kèn à?
- Ờ.
Nếu chú Đàn nói với nó thì đúng rồi! Tôi làm thinh một lát, lại thắc mắc:
- Sao cả tháng nay tao không thấy chú Đàn thổi kèn dưới gốc phượng nữa hở mày?
Hóa ra thằng Tường cũng từng thắc mắc y hệt tôi. Nó chép miệng:
- Em đã hỏi chú Đàn rồi.
- Chú bảo sao?
Tường cười khúc khích:
Chú bảo chị Vinh đã mê chú, chú không cần phải khản cổ “gặm bắp nướng” hằng đêm nữa.
12. Chim xanh
Chị Vinh mê chú Đàn không chỉ nhờ tiếng kèn.
Chị mê chú còn vì những bức thư tình nồng nàn của chú.
Lại cũng Tường kể với tôi. Thằng này có cái tật lớn là không bao giờ kể chuyện một lèo. Chuyện gì cũng vậy, nó cứ hôm nay he hé một chút. Có nhiều chuyện khi tôi nghe được phần sau thì đã quên béng mất phần đầu.
Người đưa thư cho chú Đàn dĩ nhiên là thằng Tường.
Tôi không hiểu tại sao chú Đàn không nhờ tôi. Tôi ghen tị nghĩ, nhưng rồi tôi tự giải đáp được ngay: Ba chị Vinh là thầy Nhãn, là thầy giáo chủ nhiệm lớp tôi, chú Đàn không nhờ tôi có lẽ sợ tôi khiếp vía thầy sẽ làm hỏng việc.
Khi nghe Tường kể, tôi công nhận chú Đàn tính toán hay thật.
Chú Đàn viết thư bỏ vào phong bì rồi lật áo thằng Tường lên, nhét phong thư ngang lưng quần, giấu sau vạt áo.
Buổi trưa, Tường chạy qua nhà chị Vinh, réo inh ỏi:
- Chị Vinh ơi, chị Vinh!
Chị Vinh bước ra:
- Có chuyện gì thế em?
Chú Đàn bày cho Tường cả chục câu trả lời:
- Chị cho mẹ em xin quả ớt.
- Chị cho mẹ em xin quả chanh.
- Chị cho mẹ em mượn chai xì dầu.
- ………………
Tùy theo câu trả lời của Tường mà chị Vinh đưa cho nó một quả chanh, một quả ớt hay một chai xì dầu, tay kia lật áo thằng Tường rút phong thư rồi lật đật giấu vào vạt áo của chị.
- Thế mày qua nhà mà thầy Nhãn không hay biết à? – Tôi thắc mắc.
- Biết chứ.
Tôi cắn môi:
- Thế thầy không hỏi gì sao?
- Có. Thỉnh thoảng thầy có hỏi “Con đi đâu đó Tường?”. Có hôm thầy hỏi “Con tìm chị Vinh làm gì vậy con?”.
Tôi rụt cổ:
- Nều tao là mày chắc tao tè ra quần rồi.
- Thầy chỉ ngồi trong nhà hỏi vọng ra thôi.
- Ngồi trong nhà hay ngồi đâu cũng vậy. – Lần này tôi vừa rụt cổ vừa rùng mình – Hễ nghe giọng thầy cất lên là tao muốn xỉu rồi.
Tường cười khì khì:
- Anh nhát gan quá.
Bị chê, tôi nổi khùng:
- Mày ngu quá! Tại giáo viên chủ nhiệm của mày là cô Trang. Nếu mày học thầy Nhãn như tao thử coi mày có nhát gan không!
13. Chim xanh gặp nạn
Chú Đàn gọi việc chuyển thư của người con trai đến người con gái là “làm chim xanh”.
Chú khen Tường “con là con chim xanh giỏi nhất thế gian” làm thằng nhóc sướng rơn.
Nhưng con chim xanh giỏi nhất thế gian đó cũng có ngày gặp nạn.
Chuyện Tường gặp nạn, cả tuần lễ sau nó mới bẽn lẽn kể tôi nghe. Tôi đã nói rồi, thằng này nó chẳng có chuyện gì chịu kể dứt một lần.
Hôm đó như mọi lần Tường nhét lá thư của chú Đàn vào lưng quần rồi vù qua nhà thầy Nhãn.
- Chị Vinh ơi, chị Vinh!
Tường đứng ngoài sân, kêu lớn. Nhưng lần này nó không thấy chị Vinh đâu.
Người từ trong nhà đi ra là thầy Nhãn.
Nhìn bộ mặt khó đăm đăm của thầy, lúc đó Tường mới biết thế nào là sợ hãi. Nó hoàn toàn bất ngờ, ruột gan như trôi tuột đi đâu mất. Nó chợt nhớ đến con rồng hai đầu canh giữ vườn táo vàng trong câu chuyện nó vừa đọc và nhìn lom lom vào cổ áo thầy, hồi hộp chờ một cái đầu thứ hai mọc ra từ chổ đó.
- Con tìm chị Vinh làm gì vậy con?
Thầy Nhãn lại gần và cất tiếng hỏi, giọng lạnh tanh.
Tường lấm lét liếc xuống vạt áo rồi ngước nhìn thầy:
- Dạ, con hỏi xin cho mẹ con quả chanh.
Ánh mắt thằng Tường đã tố cáo nó. Thằng Tường nói với tôi như vậy. Bàn tay thầy Nhãn lần theo tia nhìn của nó, mò vào dưới vạt áo.
Thầy rút lá thư ra khỏi lưng quần Tường rồi quay gót trở vào nhà, không nói một tiếng nào.
Mặt xanh như tàu lá, Tường đứng trơ giữa sân nắng có đến vài phút, tay chân cứng đờ, chỉ muốn khuỵu xuống.
Đến khi nó nhúc nhích được, nó bất chợt òa khóc.
Tường chạy về nhà, vẫn không ngừng nức nở cho đến khi chú Đàn đang chờ sẵn ở bụi chuối sau hè dang tay ôm lấy nó.
- Nín đi con. Có chuyện gì thế?
Nghe chú Đàn hỏi, Tường càng khóc to hơn. Câu hỏi giống như mũi dao khoét vào vết thương lòng của nó, nếu có thể xem tai nạn của nó xứng đáng để gọi là “vết thương lòng”. Và thế là nó khóc tức tưởi, khóc tồ tồ như vòi nước bị hỏng khóa.
Chú Đàn vén áo nó lên, không thấy là thư đâu, ngẫm nghĩ một lát rồi khẽ giọng hỏi:
- Con không gặp chị Vinh hở?
- Dạ… không… – Tường đáp qua tiếng khóc.
Chú Đàn thở ra:
- Con đừng khóc nữa.
Tường vẫn tiếp tục khóc, có lẽ nó cũng muốn ngưng lại nhưng không ngưng được. Con người ta khóc cũng giống như trời mưa. Chỉ khi nào hết nước thì trời mới thôi mưa và chúng ta mới thôi khóc.
Thằng Tường cũng vậy thôi. Nó khóc, khóc hoài. Nhưng dần dần tiếng khóc yếu đi, một hồi sau chuyển qua thút thít. Rồi tanh hẳn.
Lúc đó nó mới rảnh để lắp bắp:
- Thầy Nhãn…
Chú Đàn xoa đầu nó:
- Chú biết rồi, con không cần kể nữa.
Rồi chú đứng lên:
- Để chú xé giấy xếp cho con chiếc máy bay.
Chiếc máy bay giấy của chú Đàn khiến mặt thằng Tường nở ra. Nó phóng máy bay kiệng vòng vèo trong vườn và quên rất nhanh những giọt nước mắt vừa tắm ướt hai gò má nó.
Tôi tặc lưỡi, khi Tường kể xong:
- Mày ngu quá. Không phải chỉ đến khi nhìn ánh mắt của mày thầy Nhãn mới biết mày lận thư dưới vạt áo đâu.
Tường ngơ ngác:
- Thầy biết từ trước hở anh?
Tôi đá chân vào chân nó, giọng hiểu biết:
- Tao nghĩ thầy biết lâu rồi. Chả ai lại xin ớt, xin chanh, xin xì dầu hoài như thế. Có họa là hâm!
14. Gió mưa là bệnh của trời
Một hôm, tôi tò mò hỏi thằng Tường:
- Mày có nhớ mày đưa thư dùm chú Đàn bao nhiêu lần rồi không?
Tường véo môi, ngập ngừng:
- Mười mấy lần.
- Nhiều thế cơ à?
- Dạ.
Tôi nheo mắt:
- Thế có lần nào mày lén mở thư ra xem chú Đàn viết gì trong đó không?
- Có một lần. – Tường ngượng ngập đáp, mặt ửng lên như đột ngột tráng một lớp ráng chiều.
Tôi xích lại gần nó hơn:
- Chú Đàn viết gì trong đó vậy?
- Hình như là một bài thơ.
- Thơ à?
- Vâng.
- Thơ gì vậy?
- Em không biết.
- Thế mày có nhớ một câu nào không?
- Em nhớ được hai câu.
- Mày đọc tao nghe coi.
Tường đọc:
- Gió mưa là bệnh của trời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Tôi không biết đó là thơ Nguyễn Bính. Tôi chỉ thấy hai câu thơ hay hay, ngồ ngộ. Và tôi nhẩm hoài trong miệng để khỏi quên.
Suốt mấy ngày tôi chẳng biết làm gì với hai câu thơ đó, cho tới khi tôi chợt nhớ con Xin ngồi cạnh tôi trên lớp.
Xin là con bé xinh xắn, mặc dù hai gò má nó trổ đầy tàn nhang. Tôi, nó và thằng Sơn con ông Ba Huấn ngồi chung một bàn. Tôi ngồi chính giữa, nó ngồi bên phải, thằng Sơn ngồi bên trái.
Hằng ngày tôi và thằng Sơn vẫn hay trêu nó. Đang ngồi học, tôi thình lình quay sang nó:
- Ăn không, Xin?
- Ăn gì?
- Ăn xin chứ ăn gì!
Một lát đến thằng Sơn:
- Ôi, đói bụng quá! Ăn không, Xin?
- Ăn gì?
- Ăn xin!
Bị trêu “ăn xin”, lần nào con Xin cũng thút thít khóc. Nó giận dỗi ngoảnh mặt đi chổ khác, không thèm nói chuyện với bọn tôi.
Nhưng tính nó mau quên. Qua ngày hôm sau nó lại bị mắc lõm hai đứa tôi một cách dễ dàng. Nghe tôi hỏi “Ăn không, Xin?” nó lại láu táu “Ăn