hể ờ một nơi dễ chịu như thế này. Số nhà 85, Ba Du Sinh đã cho cô biết. Ngôi nhà nhỏ, mặt ngoài tường màu vàng chanh, chắc mới quét vôi lại cách đây không lâu, bậc thềm lát đá và các góc tường nhà cũng mới sơn, nhưng vẫn không thể che lấp những chỗ lồi lõm. Na Lan đoán đây là nhà tầng kểu cũ chứ không phải nhà công bình thường. Sở Hoài Sơn có thể ở độc lập trong mảnh đất này, hẳn nhiên phải có quan hệ lâu năm với Học viên Âm nhạc, có quan hệ với các cấp lãnh đạo. Cô bấm chuông cửa. Bên trong có tiếng bước chân đi xuống cầu thang. Bước chân dừng ở sau cửa. Người ấy nhìn ra qua mắt thần. Na Lan mỉm cười, kiên nhẫn chờ đợi. Rồi cửa mở, nhưng chỉ he hé. Cô tiếp tục chờ đợi, người ấy sẽ hỏi hoặc mời vào… nhưng sau một phút cửa vẫn he hé và vẫn không thấy người đâu. “Chào thầy ạ…” Na Lan gọi. Không trả lời. Cô lại lặng lẽ chờ đợi. Rất lâu, quá sốt ruột, cô bèn gọi, “Thưa thầy, em vào đây!” Đoạn chùi giày thật kỹ lên tấm thảm đặt ở bậc thềm rồi đẩy cửa bước vào. Đằng sau cửa là một hành lang trống, đón cô chỉ là hai giò phong lan treo hai bên tường. Rõ ràng lúc nãy có tiếng bước chân, bây giờ cô bước vào thì vắng lặng, chủ nhân của bước chân ấy như đã tan vào làn hương lan dìu dịu. “Thưa thầy…” Cô lại gọi. Đương nhiên vẫn không ai trả lời. Bên phải là một căn phòng, Na Lan đứng ở hành lang có thể liếc vào, cô nhìn thấy một cái tủ gỗ gụ đựng các bộ đồ trà, thấp thoáng đồ sứ rất tinh xảo. Nền nhà cho thấy đó là gian bếp. Cô bước thêm vài bước, trước mặt là đầu cầu thang lên gác. Ở dưới bậc thang thứ nhất có hai đôi dép lê thuê hoa kích cỡ na ná nhau, một đôi kiểu nam một đôi kiểu nữ. Đôi dép nam nền vải xanh thêu cảnh sơn thủy, dòng sông có một con thuyền đánh cá; đôi dép nữ màu tím nhạt, thêu hoa mặc lan. Na Lan hơi ngạc nhiên. Cô tháo giày, xỏ chân vào đôi dép nữ, có cảm giác êm êm như giẫm trên mây. Rồi cô nhẹ bước lên cầu thang, tiếng kêu ken két dưới chân cho cô biết cầu thang này đã ở độ tuổi cổ lai hy, tay vịn trông thật cũ kỹ nhưng không thô ráp, đặt tay vào chỉ thấy trơn mát. Càng bước lên cao, hương lan vấn vít từ dưới hành lang càng đượm; là thứ hương thơm càng nhiều càng khoan khoái, chứ không phải càng nhiều càng nồng. Trạng thái căng thẳng nãy giờ của Na Lan dần dần tan biến. Trên gác có ba phòng, nhưng chỉ một phòng đang mở cửa. Cô khẽ gõ cửa, không thấy ai ừ hữ, cô đánh bạo nhìn vào bên trong. Ấn tượng đầu tiên của cô, rõ ràng đây là thư phòng hoặc là phòng tranh, hoặc phòng ngồi chơi đàn. Chính giữa phòng là một cái bàn dài, trên đạt giá cài bút đang treo sẵn bảy tám cây bút lông. Bên cạnh giá bút là nghiên mực và một tập giấy tuyên. Đầu kia bàn đặt mấy cái triện đá, mộ hộp gỗ đang mở, gác chênh chếch vài con dao khắc các cỡ. Cách bàn một khoảng hơi xa có hai chậu rễ cây chạm trổ đang làm dở. Ở một góc phòng kê một cái giá, bên trên đặt cổ cầm, vách gỗ dựng bên cạnh là giá đàn với một cây cello, gần đó là một chiếc kèn cor, mặt tường bên trên treo một ống tiêu và một cây kèn clarinette. Một mặt tường khác là tủ sách cao sát trần nhà, chứa đầ sách đủ các màu sắc. Na Lan đọc được vài cái tên, Tổng tập về nghệ thuật cắt giấy dân gian Thiểm Tây, Đại số tuyến tính, Niên giám Viện nghiên cứu hải dương học Giang Kinh, Đa tình kiếm khác vô tình kiếm, Data Mining Inference and Predictions… một bộ sưu tập sách đa dạng nhất thiên hạ. Rồi Na Lan nhìn thấy người con gái. Trong một bức tranh. Cô bước lại gần, đó là bức tranh sơn dầu rộng bằng một ô của tủ sách. Một nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, vẻ diễm lệ tự nhiên không son phấn, mũ trắng rộng vành, váy áo màu hồng, có vẻ như con người của thập kỷ 70-80 thế kỷ trước? Điều thu hút Na Lan là ánh mắt hơi u buồn của cô gái trong tranh. “Mẹ tôi đấy.” Giọng nói từ phía sau vang lên khiến Na Lan giật mình quay lại. Một thanh niên cao gầy, có đôi mắt hơi u buồn giống cô gái trong bức họa. “Tôi chụp… ảnh mẹ tôi ngày trước, rồi vẽ lại. Còn vụng lắm.” Người ấy nói. “Xin lỗi. Tôi không cố ý xem trộm, nhưng quả là tôi rất không lịch sự…” Na Lan lúng túng không biết nên giải thích thế nào. “Tôi mới nên xin lỗi chứ, tôi đã không lịch sự… tôi không ra đón khách…” Người ấy bước lên mấy bước. Mái tóc đen hơi xoăn và khuôn mặt trắng xanh. Rất tuấn tú. Na Lan chợt thấy rung động. Còn nhớ năm xưa, lần đầu gặp Tần Hoài, cô cũng có tâm trạng thế này. Một sai lầm chí mạng. Tự nhiên cô lại nhớ đến Tần Hoài, và thấy mình vô tội, tình yêu ngắn ngủi kết thúc đột ngột, Tần Hoài bỏ đi Lĩnh Nam điều trị vết thương cơ thể và cả vết thương lòng, gần hai năm qua cô chỉ nghe loáng thoáng về anh qua người khác, chứ không nhận được tin gì từ chính anh cả. Cô đã vài lần gửi email nhưng cũng chẳng khác gì mà xóa thư cho vào “thùng rác”. Cô có đủ lòng tự trọng để không đi tìm Tần Hoài bằng xương bằng thịt, cô chỉ biết lâu nay ngoài cuốn Hồ tuyệt mệnh ra, nhà “sản xuất văn” này không có tác phầm nào khác. Mãi cho đến cú phôn không lời đêm qua. Cô lại bâng khuâng nhớ đến Cốc Y Dương, giữa gian nguy trong núi tuyết, dường như mối tình xưa đã trở lại, nhưng rồi anh bỏ mình để cứu cô thoát hiểm. Đây có phải định mệnh không, rằng những ai yêu cô sẽ rời xa, dù theo những cách khác nhau đi nữa? Để mình cô ở lại. “Cô là Na Lan phải không?” Chàng thanh niên khẽ hỏi. Giọng anh dịu dàng, hơi trầm và cũng có nét u buồn, giống tiếng đàn cello ngân khẽ. Nhận ra mình đã mất tập trung, Na Lan hơi đỏ mặt, gật đầu, “Vâng… tôi đến gặp thầy Sở Hoài Sơn.” “Sáng nay đội trưởng, Ba Du Sinh, đã nhắn tin cho tôi. Nói là cô hoặc anh ấy sẽ đến gặp tôi.” Anh ta chỉ vào cái ghế duy nhất trong căn phòng. “Mời cô ngồi.” Na Lan hơi kinh ngạc, “Anh là… thầy Sở Hoài Sơn?” Nhưng cô lại cảm thấy mình quá thộn. Ba Du Sinh đã nói Sở Hoài Sơn mắc chứng “sợ đông người”, mỗi lần chỉ tiếp một khách, thì đương nhiên không sống trong một gia đình lớn, cho nên Sở Hoài Sơn chỉ có thể là anh ta. Cô lại chưa hỏi Ba Du Sinh tuổi tác và dáng vẻ Sở Hoài Sơn thế nào, chỉ tâm niệm và hình dung đó là một ông trung niên hoặc cao tuổi với bộ râu dài chứ không nghĩ lại là một thanh niên. Đoán ra tâm trạng của Na Lan, Sở Hoài Sơn mỉm cười, “Họ tên tôi, nghe rất cổ lỗ nên, khiến nhiều người hiểu lầm. Trước đây có vị khách, đã nói với tôi, ‘Tôi muốn gặp, thầy Sở của anh’.” Na Lan cũng cười, “Xin lỗi, vì tôi có ấn tượng chủ quan nên… và, càng phải xin lỗi anh, chưa chờ anh nói thì tôi đã đi dép lê… mong sao tôi không đi nhầm dép.” Sở Hoài Sơn đang đi đôi dép lê màu xanh, thêu hoa văn na ná hình chim sẻ. Như thế là ngụ ý gì? Nhận ra ánh mắt thắc mắc của Na Lan, Sở Hoài Sơn hỏi, “Đoán xem, tại sao lại là, con chim nhỏ?” Na Lan chú ý đến cách nói của anh ta, nhát gừng, câu rất ngắn. Cô đáp, “Không thể nói dối trước mặt cao nhân, đúng là tôi đang nghĩ, không biết anh có mấy đôi dép lê, nhưng có lẽ hai đôi đặt dưới kia là chuẩn bị cho tôi và anh Ba Du Sinh vì anh biết sau đây có thể anh ấy cũng sẽ đến… Đôi dép nam thêu cảnh sơn thủy – Ba sơn Du thủy[1'> – chắc là ám chỉ Ba Du Sinh; dép nữ thêu hoa lan, tôi liều vơ vào vậy, ám chỉ chữ Lan trong tên tôi