Vẫn còn kịp giờ lấy hành lý và xuống tàu. – Ông đã đứng một lúc lâu ở lan can, gió vùng biển Southampton thổi vào mặt, ông lại nghĩ không đi thì quá, ông quyết định ở lại trên tàu, vẫy tay chào Stephen và Judith lần chót rồi quả quyết lui về phòng. Ông còn cảm thấy sâu sắc, tốt nhất là về phòng xếp hành lý ra là việc làm hợp lý nhất. Trong cái đêm trống vắng này, lần đầu tiên ông có cảm giác mờ ảo, không thực của các đồ vật. Ông xuống phòng ông ở Boong C, hành lý của ông không còn trong phòng nữa. Ông nhìn quanh phòng, không khí hơi tù hãm, vén màn treo ở cửa sổ tròn nhìn ra biển. Một cái rương và 2 túi xách, có gắn nhãn tên đàng hoàng, ấy là chưa nói đến giỏ trái cây, không còn ở đây nữa. – Tony lại leo lên boong, tìm văn phòng của viên quản lý hành khách. Ông này đang ngồi ở bà, sau cái cửa như ở nơi bán vé, có bộ mặt như thể lúc nào cũng bị quấy rầy, và thực sự ông cũng chưa thoát được cảnh giải quyết hàng lô phàn nàn, thắc mắc của khách mới lên. Ông đang lắc cái chuông yêu cầu giữ trật tự thì gặp ánh mắt Tony. Tony nói ngay: – Hành lý của tôi… Ông quản lý luôn bị quấy rầy nói nhanh: – Xin Ngài an tâm, Ngài Marvell. Tôi đã cho mang lên bờ rồi. Tốt nhất Ngài nên lo sẵn sàng lên bờ đi. Tony thấy một cảm nghĩ cực kỳ ngu ngốc về quản ý tàu. – Gởi lên bờ? Lên bờ? Tại sao chứ, ai bảo ông đưa hành lý của tôi lên bờ? – Ơ, thì chính Ngài bảo – ông quản lý coi lại danh sách và nhưng con số. Tony ngỡ ngàng chỉ còn biết đứng nhìn ông ta. Chính Ngài tới đây, chưa quá 10 phút- ông ta nói tiếp mắt hấp háy như muốn nói ông làm việc nghiêm túc không thể phê binh được. Ngài nói không đi chuyến này nữa và yêu cất gửi hành lý vào bờ! Tôi có nói với Ngài, hủy chuyến đi vào ngày giờ này, e rằng chúng tôi không thể hoàn… – Đem hành lý trở lại phòng tôi – giọng ông như lạc hẳn. Tôi không hề hủy chuyến đi. Đem hành lý trở lại. Viên quản lý nói: – Sẽ đúng như yêu cầu của Ngài, nếu còn kịp – ông gõ chuông liên hồi. Tiếng còi hụ vang trên đầu là âm thanh buồn nhất ở Southampton, chân vịt tàu bắt đầu quạt để ra khỏi vùng nước Southampton. Boong B, giữa những cửa hành lang mở, rất lạnh và gió thổi ù ù như bão. Bây giờ Tony Marvell vẫn không thể nhớ lại được tí gì về việc đã bảo tên quản lý đưa hành lý lên. Việc này làm ông tá hỏa tam tinh như thể bị đập một cú vào giữa hai mắt. Và một cái gì đó như thôi thúc ông chạy khỏi chiếc Queen Anne trước khi họ rút cầu lên tàu. Rồi mơ hồ như vừa gặp ác mộng. Tệ hại nhất là ông tin là tâm thần ông đã suy sụp. Lâu lâu trong thâm tâm ông lại có tin tưởng là ông không còn hiện hữu thực sự nữa, thân xác ông và bản ngã ông đã tách khỏi nhau. Những bước đi, những lời nói chỉ là của một cái hình nộm được lắp ráp lại theo các khớp, trong lúc thần hồn ông lại ở chỗ khác, nhìn cái xác của mình đi. Để xác định xem mình còn trí khôn không, ông cố suy nghĩ về những vấn đề có nhân tính nghĩ đến Judith chẳng hạn. Ông cố nhớ lại đôi mắt nâu của cô, đường nét thanh tú của hai gò má khi cô quay đầu, cái cửa tay bằng giấy cô mang trong văn phòng. Judith, vị hôn thê của ông, thư ký của ông, có thể điều hành mọi việc khi ông vắng mặt, người ông hằng yêu mến, ngay cả lúc này vẫn gần gũi với ông nhất. Thay vì ông nghĩ tới Stephen, em ông, Johnny Cleaver hay bất cứ người han nào ông chợt nhớ tới, nhưng ông lại nghĩ tới Old Jim Marvell: người đã chết. Sức mạnh của trí tưởng tượng thật lớn lao. Có lúc, trong cái phòng ngắm biển lộng gió, đối diện văn phòng quản lý, ông đã tưởng Old Jim đang ngắm ông từ góc có những chậu cây dừa. Quí cô biết không, tất cả những ý nghĩ và hình ảnh này vụt qua trí óc ông trong khoảnh khắc, khi ông nghe còi tàu hụ rời bến. Ông xin lỗi viên quản lý rồi về phòng, ông cám ơn những tiếng chuyện trò, những tiếng đi lại trong những hành lang dưới boong. Chẳng ai chú ý tới ông, nhưng ít nhất họ cũng hiện hữu, có mặt ở đây. Nhưng khi mở cửa phòng mình, ông đứng sững, im lặng ở cửa. Chân vịt quạt mạnh, một cái nhô lên hụp xuống, một chấn động mạnh đẩy lên phía trên tàu, làm các cửa kiếng trong khe sắt kêu lạch cạch, các vách sắt của phòng rên rỉ. Tàu Queen Anne đang chạy. Tony Marvell nắm chắc cánh cửa, như thể chuyển động của tàu chao qua một bên, và vẫn nhìn chằm chằm lên giường. Một khẩu súng lục tự động nằm trên đó, trước đây không hề có. Cái đèn sưởi đã nung đỏ những trụ đỡ khung bằng a- măng đỏ rực. Cái giọng nhỏ của căn nhà ở phố St. John’s Wood chìm trong tĩnh lặng một lúc. Hargreaves, Ngài Charles Hargreave, phụ tá chánh sở cảnh sát, thuộc cục điều tra hình sự cúi xuống vặn thấp ngọn đèn gas xuống. Giọng ông thay đổi một chút khi tiếng xì gas nhỏ hẳn đi. Ông đưa tay lên: – Xin quí cô thong thả cho một chút, tôi không muốn quí cô hiểu lầm. Quí cô đang nghĩ là nổi sợ hãi và diễn biến chậm chạp của các sự việc sau theo đuổi ông ta mãi. Không. Đây là yếu tố kỳ lạ nhất của câu chuyện. – Tony nói với tôi, những cảm nhận này chỉ xảy ra với ông như chỉ trong một cơn, một khoảng thời gian ngắn khoảng 15 phút, ngay trước khi tàu Queen Anne khởi hành và ngay sau đó. Chẳng những tôi cảm thấy sư vật không thật nữa, mà còn âm mưu thâm độc, hận thù và nguy hiểm nữa. Chúng bủa vây, đè ép ông. Ông cảm thấy chúng xâm nhập ông như một luồng điện ắc quy. Nhưng 5 phút sau, tàu đang hướng mũi ra khơi, chúng biết mất. Giống như ông ra khỏi một màn sương mù dày đặc. Điều này thật vô lý. Dù tin có cô hồn, quỉ âm chăng nữa, cũng không thể tin rằng quyền lực của chúng chỉ giới hạn trong một vùng, các cánh tay bạch tuộc của chúng tuột ra sau khoảng cách nửa dặm, chúng không còn ảnh hưởng trên môi trường nước. Nhưng chúng lại có thật. Vài phút trước đây ông còn cầm súng đứng đó, tiếng máy tàu đậìp vào tai ông, một xung lực kinh hồn thúc đẩy cánh tay ông đưa súng lên, kê vào miệng và… Rồi “phựt”, một cái gì đứt. Ông ta chỉ diễn tả được như vậy. Ông ngồi thẳng dậy, ông như người vừa qua cơn sốt, run rẩy, ướt đẫm mồ hôi. Ông thực sự lùi lại sau bức màn, trở lại thể giới thực. Ông hít một hơi sâu, rồi ra cửa sổ bên hông tàu, mở ra. Từ lúc đó ông thấy tâm hồn ổn định hơn. – Tại sao khẩu súng ở trong phòng ông. ông không biết. Chắc là ông đã có mang nó theo trong một cơn mất trí chăng? Ông chẳng nhớ gì cả. Ông nhìn khẩu súng với con mắt mới, tâm tình yêu đời như kẻ được minh oan vào phút chót được dẫn từ pháp trường về.- – Quí cô có thể nghĩ ông ấy sợ không dám sờ đến khẩu súng ấy nữa và vứt nó xuống biển cho rồi. Không. Đối với ông, nó là một phần của bí ẩn. Ông nhìn nó thật lâu: khẩu Browning 38, chế tại Bỉ, lắp đầy đạn. Ông cất nó trong rương, khóa lại. Vài ngày sau ông vẫn còn nghĩ về nó. Nó là một vật chứng ông có thể mang về nhà, một vật cụ thể trong cơn ác mộng. – Ở cảng New York, nhân viên hải quan xét thấy nó, nhưng chẳng ai ngạc nhiên. Ông mang nó theo đi du lịch khắp nước Mỹ, Cleveland, Chicago, Salt Lake City, sang San Francisco trong một ngày sương mù, rồi vượt vùng biển lửa sang Honolulu. Ở cảng Yokohama người ta định tịch thu nó, ông phải hối lộ một số