n bắt lính tráng đưa quan tài về huyện A Bối để định đoạt. Ở tư dinh của mình, Mã Văn Ninh dùng thuốc nổ để mở quan tài đá, không chỉ trông thấy thi thể vị lạt ma bị kền kền xé thành nhiều mảnh mà còn thấy dưới đáy quan tài có một số văn tự kỳ lạ và bản đồ, nghe nói những chữ này rất giống với chữ trên tấm bản đồ của vị lạt ma đưa đến. Vị lạt ma đã từng chỉ dẫn cho Mã Văn Ninh, nên hắn cũng đọc hiểu được đại khái ý nghĩa của nó. Sau khi quan tài được mở ra, Mã Văn Ninh suốt đêm không sao ngủ được, hôm sau hắn sai lính đem quan tài trả về núi. Hôm quan tài được đưa đi, hắn mời hơn trăm vị Phật sống và lạt ma ở mấy huyện xung quanh đến đọc kinh siêu độ, cảnh tượng rất huyên náo. Nhưng không ai biết rằng, cái quan tài kia không hề được trả về chỗ cũ mà được đưa đi nơi khác, chính là hang báu vật thần bí ghi trên tấm bản đồ cất giấu trong quan tài, nghe nói chỉ cần tìm thấy nơi ấy sẽ giải được lời nguyền không thể sống quá mười ngày của Mã Văn Ninh và đội trộm mộ. Những thư từ này đều là mật hàm trao đổi giữa Mã Văn Ninh và viên thư ký, cũng là một trong những kênh quan trọng để Mã Văn Ninh kiểm soát đội trộm mộ. Trên thực tế, tổng chỉ huy trực tiếp của đội đào mộ là viên thư ký, ông ta tiếp nhận mệnh lệnh của Mã Văn Ninh, được phép của Mã Văn Ninh, có thể sai bảo đội đào trộm mộ làm mọi việc. Viên thư ký cùng đội đào trộm mộ vừa ra khỏi thành thì nhận được lệnh của Mã Văn Ninh, yêu cầu ông ta dẫn một tiểu đội theo đường cũ quay về vùng núi Xương Đô, cứ ở hang núi chờ tin của Mã Văn Ninh. Mã Văn Ninh từ đó bặt vô âm tín, viên thư ký không biết Mã Văn Ninh bảo ông ta ở đó chờ tin gì, nhưng những binh sĩ đào trộm mộ chờ ở hang núi cứ chết dần chết mòn một cách hết sức kỳ quái, khiến viên thư ký càng ngày càng lo lắng. Cho đến khi chỉ còn lại một mình, ông ta mới phát hiện thì ra đằng sau chuyện này ẩn chứa một âm mưu to lớn. Thư viết đến đây thì dừng lại, mấy trang sau đều để trắng. Vương Uy đang đọc đến đoạn quan trọng thì ngưng, lòng lẫn lộn muôn mối tơ vò, anh lật đi lật lại mấy trang giấy trắng vài lần nhưng chẳng tìm thấy một câu nào nữa. Đột nhiên, Vương Uy ngước lên, trông thấy một bóng đen lù lù bám trên vách hang tự lúc nào, anh giật thót cả mình, chẳng biết cái bóng đó là gì, nhưng nó bám ở đấy nhìn rất khủng bố tinh thần, dưới anh đuốc chập chờn trông như đang cử động. Vương Uy thấy bóng đen kia càng lúc càng lay động rõ hơn, thình lình, ngọn đuốc trong tay chập chờn mấy lần rồi tắt ngấm, một luồng hơi thối nóng hầm hập đột ngột từ sau lưng anh thốc tới. Vương Uy sợ đứng tim, trong tình cảnh này ai bảo không sợ thì chỉ là nói khoác, anh vắt giò chạy về phía cửa đá, nhưng mới chạy được vài bước chân cẳng đã mềm nhũn ra. Những lời viên thư ký viết trong thư cứ lởn vởn trong óc, tại sao những người lính ở trong hang núi cứ chết dần? Phải chăng họ cũng chui cả vào trong bệ đá kín mít kia như hai người lính theo anh tới đây? Hay là có liên quan đến cái bóng đen bám trên vách hang? Vương Uy chạy đến nỗi thở không ra hơi, ráng chạm vào cánh cửa đá kia, nhưng đột nhiên hai chân anh bỗng chới với trên không, dường như đã bị thứ gì đó xách gáy lên. Vương Uy ra sức vùng vẫy, nhưng trên không không có chỗ nào để bám víu, lòng anh run lên vì sợ hãi, chẳng biết thứ gì đang ở sau lưng mình? Đương thắc mắc không hiểu sao thứ ở sau lưng treo mình lên không trung rồi chẳng thấy động tĩnh gì, Vương Uy bỗng thấy toàn thân nhẹ hẫng, rơi bịch từ độ ấy mét xuống, xương cốt như muốn gãy vụn cả ra. Anh đang chống tay gượng dậy thì thứ gì đó như một cái trống đá lập tức đèn nghiến anh xuống, khiến anh nằm xụi lơ dưới đất, nảy đom đóm mắt. Vương Uy giãy giụa trên mặt đất sức nặng trên lưng mỗi lúc một tăng, đột nhiên anh ngước đầu lên, trông thấy phía sau cửa đá sáng rực ánh đuốc. Thoáng cái ngọn lửa sau cửa đá băng qua cánh cửa mở hé, theo sau là một người động tác cứng đờ, đáng sợ hơn là, người đó có một bộ mặt chim, dính đầy máu. Không chịu nổi sức nặng trên lưng, Vương Uy gục xuống đất ngất lịm. BA:
Chương 3: Vương triều Lạp Cách Nhật Vương Uy mơ hồ tỉnh lại, thấy mình bị khiêng vào trong rừng, hai kẻ khiêng cáng đang phải còng lưng tôm, vụng về luồn lách giữa rừng cây dày đặc. Anh thấy ê ẩm khắp người, hét lên lệnh cho hai người khiêng cáng dừng lại, hỏi họ đang định đi đâu? Một trong hai người khiêng cáng mắc tật nói ngọng, ú ú ớ ớ một hồi vẫn không sao nói rõ đưọc, kẻ còn lại gầy quắt, ngoẹo đầu lắp bắp giải thích rằng người của quân đoàn 21 đang đuổi riết, các anh em đã hy sinh khá nhiều, Nhị Rỗ dẫn theo hơn chục người chặn hậu, thấy hai người bọn họ nhanh nhẹn bèn cử họ khiêng chỉ huy chạy trốn. Biết Nhị Rỗ còn sống, Vương Uy rất mừng, sau đó lại nổi nóng, thầm chửi Nhị Rỗ chỉ giỏi gây chuyện, một mình tụt xuống khe núi rồi chẳng nói chẳng rằng biến mất, chừng nào gặp, phải xạc cho gã một trận. Nghe tiếng đại bác nổ rền ở phía sau, biết kẻ địch sắp đuổi tới nơi, hai người khiêng cáng lại khiêng Vương Uy lên, chạy tiếp. Lẩn lút trong rừng hơn hai tiếng đồng hồ, nghe tiếng súng xa dần, hai người mới đặt Vương Uy xuống nghỉ, còn họ ngồi dưới gốc cây thở dốc. Hai cựu binh này ở trong đơn vị của Vương Uy không phải chỉ một hai năm, người nói ngọng dạo mới vào lính là một thanh niên mồm mép tép nhẩy, một lần bọn họ theo quân chủ lực vào vùng Tạng diệt thổ phỉ, hồi đó đang là mùa đông, càng tiến về phía Tây đất Tạng càng rét, nước đóng băng hết, đám thổ phỉ bị đánh tả tơi chạy hết vào núi trốn. Vùng núi này cao hơn mặt biển mấy nghìn mét, hễ ngẩng đầu lên là hoa cả mắt, đâu đâu cũng thấy núi tuyết sừng sững trắng xóa, Ngọng bị kẹt ở đó hơn chục ngày, lưỡi đông cứng lại, nói năng khó khăn. Người lính ngoẹo đầu kia thì bị tật bẩm sinh, nhà nghèo không đặt tên, mọi người vẫn gọi anh ta là Ngoẹo, gọi mãi thành tên, đến khi vào lính cũng gọi là Ngoẹo. Nhị Rỗ vốn cẩn thận chu đáo, biết rằng những cựu binh có thể tin tưởng hoàn toàn cũng chỉ có hai người này, bèn cử bọn họ khiêng Vương Uy chạy trốn. Vương Uy thấy Ngoẹo đã bớt mệt, bèn hỏi họ sau khi anh xuống khe núi kia đã xảy ra chuyện gì. Nghe cấp trên hỏi lại sự việc hung hiểm đó, Ngoẹo liền cuống cả lên, thở không ra hơi. Nếu chẳng phải đang bị thương nằm bất động trên cáng, cứ như tính tình nóng nảy thường ngày, ắt Vương Uy đã sút cho anh ta một cú rồi, chuyện trời sập gì mà cuống đến thế? Ngoẹo thở hổn hển hồi lâu rồi thuật lại sự việc khủng khiếp mà bọn họ chứng kiến tại bệ đá nhỏ kia, Vương Uy nghe đến trợn cả mắt. Sau khi Vương Uy tụt xuống khe, sáu người còn lại ngồi trên canh giữ, chờ Vưong Uy và Nhi Rỗ gọi thì kéo hai người lên. Bọn họ đợi mãi đợi hoài chẳng nghe thấy bên dưới có động tĩnh gì, bèn xúm lại tán nhảm giết thời gian. Trong đêm, ánh lân tinh lập lòe trên đài thiên táng xanh len lét như những u hồn đang chớp mắt, khiến người ta sởn cả tóc gáy. Mấy người ngồi trước khe đá tán gẫu, một anh lính lớn tuổi tên Thạch Lương kể, ở quê anh có một câu chuyện, ai ai cũng biết, nghe nói xảy ra cách đây vài chục năm rồi. Chuyện kể rằng, làng bên có một ông lão nhà rất nghèo, sống bằng khoảnh ruộng cày rẽ của nhà địa chủ, bữa đ