kể lại một lần nữa cho mình nghe toàn bộ chi tiết về những gì đã xảy ra trong căn phòng mình đang ở, song mình chẳng biết thêm điều gì mới nữa cả. Bà ta có một ý kiến độc đáo riêng về nguyên nhân các vụ tự sát. Đối với nhà nghệ sĩ thì bà nghĩ rằng ở đây có dính líu đến một cuộc tình bất hạnh: trước vụ việc đó một năm thì anh này cũng đã từng sống ở đây và có một thiếu phụ trẻ thường ghé thăm anh ta, nhưng lần này thì chẳng thấy bóng dáng cô ta đâu nữa. Còn về ông người Thụy Sỹ thì bà ta không rõ điều gì đã buộc ông ta đi đến một quyết định chết người đến thế, nhưng làm sao mà hiểu hết lòng người? Chà, còn ông trung sĩ thì chẳng nghi ngờ gì nữa, ông ta tự tử chỉ là để chọc tức cô gái ấy mà thôi. Phải nói rằng những lời giải thích của bà Dubonnais mang cái nét nông cạn nào đấy, nhưng mình cứ để bà ta thả sức nói dông nói dài vì dẫu sao điều đó cũng khiến mình được giải trí. Thứ Năm, ngày mồng Ba tháng Ba. Vẫn chưa có điều gì mới. Ngài chánh cẩm gọi điện cho mình chừng hai lần một ngày, mình đáp lại rằng mình thấy rất khỏe, có lẽ lời báo cáo ấy không hoàn toàn làm ông ta thấy thỏa mãn. Mình lấy các cuốn sách y học ra và bắt đầu nghiên cứu, như vậy sự giam hãm tự nguyện sẽ mang lại cho mình ít ra một lợi ích nào đó chứ. Thứ Sáu, ngày mồng Bốn tháng Ba, hai giờ chiều. Mình ăn trưa thật ngon miệng: bà chủ đã đãi mình một nửa chai sâm banh cho bữa trưa. Đó quả là nữa ăn thịnh soạn đích thực dành cho kẻ tử tội. Bà ấy nhìn mình tựa hồ mình đã chết đến ba phần tư rồi. Khi rời phòng, nước mắt lưng tròng, bà ấy đề nghị mình đi theo ra cùng: có lẽ bà ấy sợ mình cũng sẽ treo cổ tự vẫn “để chọc tức cô ấy”. Mình cẩn thận xem xét cái dây mới treo rèm cửa. Như thế có nghĩa là bây giờ mình phải thắt cổ bằng nó chăng? Hừm, mình có quá ít mong muốn để làm việc đó. Hơn nữa, cái dây này cứng quèo và thô nhám khó mà buộc thành thòng lọng được; cần phải có một ham muốn lớm lao để mà theo gương ba kẻ xấu số kia. Giớ mình ngồi bên bàn, bên trái là cái điện thoại, bên phải có khẩu súng lục. Mình không hề cảm thấy dù chút ít hoảng sợ, nhưng trong thân tâm có sự tò mò. Sáu giờ chiều. Chẳng gì xảy ra cả, suýt chút nữa mình nói: thật tiếc! Cái giờ độc địa chết chóc ấy đã đến và đã qua, và nó hoàn toàn giống như các thời khắc khác mà thôi. Tất nhiên mình sẽ không phủ định rằng có những khoảnh khắc mình cảm thấy một nỗi ham muốn không gì chế ngự nổi được lại gần cửa sổ, quả đúng như vậy, nhưng mà hoàn toàn vì những động cơ khác! Ngài chánh cẩm đã gọi điện dễ đến mười lần vào khoảng giữa năm giờ và sáu giờ, ông ta cũng tỏ vẻ sốt ruột như chính mình vậy. Nhưng đối với bà Dubonnais thì bà ta thấy hài lòng: qua suốt một tuần rồi mà tay khách trọ ở phòng số bảy vẫn không treo cổ tự vẫn. Thật không tin được! Thứ Hai, ngày mồng Bảy tháng Ba. Mình bắt đầu tin rằng sẽ chẳng phát hiện ra điều gì hết và mình có khuynh hướng nghĩ về việc tự tử của ba người trước đây ở căn phòng này là một sự ngẫu nhiên đơn giản. Mình đã yêu cầu ông cẩm thông báo lần nữa toàn bộ các chi tiết của ba vụ tự sát, bởi vì mình thấy rõ là nếu thâm nhập kỹ vào toàn bộ các cảnh huống thì cuối cùng có thể đối mặt với nguyên nhân thực sự. Còn đối với mình thì mình sẽ ở đây lâu chừng nào có thể tùy theo sự việc. Tất nhiên mình không biết Paris, nhưng mình ở đây không mất tiền và được cấp dưỡng rất tốt. Cần phải nói thêm là mình học nhiều, tự cảm thấy rất hài lòng với việc học tập. Và cuối cùng còn có một nguyên nhân níu giữ mình ở đây nữa. Thứ Tư, ngày mồng Chín tháng Ba. Như vậy, mình đã tiến thêm một bước. Nàng Clarimoda. Chà, chính mình còn chưa kể gì về nàng Clarimoda cả. Thế là, nàng là “nguyên nhân thứ ba” của mình mà vì đó mình muốn ở lại đây, và vì nàng mà mình đã muốn lại chỗ cửa sổ vào cái giờ “tai ương” ấy, song tuyệt nhiên không phải là để treo cổ. Clarimoda, nhưng vì sao mình lại gọi nàng như vậy? Mình không có một khái niệm nào dù nhỏ bé nhất về tên gọi của nàng, nhưng vì sao lúc đó ở nơi mình bỗng xuất hiện ý muốn gọi nàng là Clarimoda. Và mình saÜn sàng đánh cuộc rằng chính tên nàng là như thế nếu như khi nào có dịp hỏi tên nàng. Mình đã nhận ra Clarimoda vào ngày đầu tiên. Nàng sống ở phía bên kia của con phố rất hẹp mà khách sạn nơi mình ở nằm tại đó: cửa sổ nhà nàng ở đối diện đúng cửa sổ phòng mình. Nàng ngồi sau tấm rèm bên cửa sổ. Tiện đây cần nói rằng nàng bắt đầu nhìn mình trước khi mình nhàn nàng, rõ ràng là nàng quan tâm đến mình. Ở đây chẳng có gì đáng ngạc nhiên, cả phố biết vì sao mình ở đây, bà Dubonnais đã săn sóc cho việc mình cư ngụ nơi bà. Cam đoan rằng mình không thuộc số những người rất đa tình, mình luôn thận trọng trong những mối quan hệ với phụ nữ. Khi mà người ta từ tỉnh lẻ tới Paris để học nghề y khoa và túi tiền vơi cạn thậm chí cũng không đủ để ít ra được ăn no một lần trong ba ngày thì đâu còn dám nghĩ tới tình yêu. Như vậy, mình không nổi trội về kinh nghiệm ái tình và lần này, có lẽ, mình đã xử sự thật quá ngốc nghếch. Dù thế nào đi nữa thì nàng khiến mình bởi vì nàng đúng là con người như thế. Lúc đầu mình đâu có dám nghĩ đến việc gây dựng quan hệ với cô nàng hàng xóm sống đối diện phòng mình. Mình quyết định là sống ở đây chỉ để tiến hành các quan sát; nhưng nếu là như vậy thì dù mình có muốn thì ở đây cũng chẳng có gì mà làm, thế cho nên mình liền bắt đầu quan sát cô hàng xóm. Người ta không thể nào mà cứ suốt ngày cắm cúi đọc sách chẳng dứt ra để ngẩng đầu lên. Hơn nữa, mình đã nói là có lẽ Clarimoda sống một mình trong căn phòng nhỏ ấy. Phòng có ba cửa sổ, nhưng nàng luôn luôn ngồi bên cánh cửa sổ đối diện cửa sổ phòng mình, nàng ngồi và kéo sợi nên cái xa quay sợi cổ xưa xinh xinh. Mình đã từng được thấy một cái xa quay sợi như thế ở nhà bà mình, nhưng bà không bao giờ sử dụng nó mà giữ gìn nó như một hoài niệm về một người thân nào đó của bà đã đi xa; thậm chí mình còn không biết là thời nay người ta dùng những cái xa quay sợi như thế. Cần nói thêm là cái xa quay sợi của Clarimoda nhỏ xinh và duyên dáng, màu cái xa ấy trắng hết và có lẽ nó được làm bằng ngà voi; có thể nàng xe những sợi chỉ cực thanh mảnh bằng cái xa quay sợi ấy. Nàng ngồi sau rèm cửa suốt ngày và làm việc không nghỉ, nàng chỉ ngừng việc khi trời đổ tối. Dĩ nhiên vào những ngày trời ảm đạm này thì ở trên phố mình ở chóng tối lắm, vào lúc năm giờ chiều là đã nhập nhoạng rồi. Nhưng chẳng bao giờ mình nhìn thấy ánh sáng đèn trong phòng nàng cả. Vẻ ngoài của nàng thế nào nhỉ? Điều đó thì mình chẳng biết rõ ràng. Mái tóc đen của nàng vồng lên như sóng, còn khuôn mặt nàng nom rất xanh xao. Mũi nàng hẹp và nhỏ với đôi cánh mũi phập phồng, đôi môi nàng cũng lợt lạt và mình có cảm giác hàm răng nhỏ của nàng sắc như răng dã thú. trên đôi mí mắt có những vết quầng thâm, nhưng khi nàng ngước mắt nhìn lên thì cặp mắt to đen thẫm của nàng long lanh. Song mình cảm nhận tất cả những vẻ ấy có lẽ nhiều hơn là thực tế. Vì thực khó mà nhận ra cái gì đó rành rẽ sau tấm rèm buông. Có một chi tiết. Nàng luôn luôn vận chiếc áo váy màu đen cao cổ có những chấm hạt đỗ màu tím nhạt. Nàng lúc nào cũng mang đôi găng