ời sáu tuổi rồi cơ đấy! Thế mà chạy như thỏ… nhưng hình ảnh đôi mắt đó hiện lại trong đầu làm tôi cứ toát mồ hôi. Ông tôi đang lúi húi bên bếp khi tôi vào. - Cháu đã về đấy à… ông đang không biết cháu ở đâu… sắp ăn rồi… Tôi đứng im, lưng dựa cửa, thở dốc: - Ông ơi… Cố trấn tĩnh, nhưng giọng tôi cứ run. Ông tôi quay lại. Mắt ông loang loáng: - Chuyện gì vậy cháu? Sao cháu hoảng hốt vậy? Tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh nhưng không được. - Ông ơi, ai sống trong ngôi nhà ở bìa rừng kia vậy? – Ông tôi nhíu mày. - Ở bìa rừng… à… nhà Winters… có chuyện gì vậy? – Cháu vừa ở đó về, cháu thấy… - Ở đó? Xung quanh có hàng rao mà? Cháu không leo rào vào nhà người ta đấy chứ? - Nhưng hàng rào thép gai mục nát hết rồi… cháu không thấy có bảng cấm – à, có lẽ bị mất rồi… nhưng ở đây ai cũng biết đó là khu vực của gia đình Winters. - Nhưng cháu không biết. Cháu nhìn vào cửa một nắp hầm… có cái gì trong đó giống như cái chuồng… có một người đàn ông… Ông tôi kéo một cái ghế lại bên bàn, ngồi xuống ôn tồn: - Cháu kể đầu đuôi cho ông nghe nào… cháu nói cái gì? Cái chuồng? Một người đàn ông? Tôi kể lại. Ông tôi có vẻ không tin. - Cháu thấy thật chứ? Không tưởng tượng chứ? Ai cũng biết bà Winters sống ở đó một mình. Cuội đời bà ta thật bi thảm. Chồng bỏ, con trai chết trận. Ông không muốn những tiếng đồn không tốt về bà ta lan khắp nơi do cháu của ông bịa ra, điều đó sẽ xúc phạm ghê gớm đến bà ấy. - Không, cháu nói thật mà! Ông đến mà xem… Có lẽ lời lẽ thành khẩn của tôi làm ông tơi ngạc nhiên. Ông đứng dậy. - Được, đi, nhưng ông không thích trò này chút nào. Ông tin chắc cháu chỉ tưởng tượng. Đêm đó, cả tỉnh Wilton bàng hoàng. Cảnh sát cưa ổ khóa cho Harry ra ngoài bầu trời tự do. Giờ đây, hắn đã là một ông già mắt kém, chân run. Người nữ quản lý thư viện dịu dàng kia được đưa vào một “nhà bảo vệ”, lời yêu cầu duy nhất của nàng là “con gấu” phải được chăm sóc cẩn thận. Khi người ta hứa sẽ trông nom hắn, nàng mới chịu đi. Thật ra, cả hai đều được đưa đến nhà thương điên của tỉnh. Cả tỉnh ồn ào cho đến hai tuần sau. Báo chí địa phương đăng những hàng tít lớn: “Người chồng bị nhốt trong cũi 30 năm”. Bên dưới hình tôi, họ viết: ‘Cậu bé dám nhìn vào ngục tối của mụ phù thủy”. Dưới hình của Harry: “Ông lão bị nhốt trong cũi 30 năm”. Và dưới hình Mariam: “Mụ phù thủy của tỉnh Wilton Falls. Mụ biến chống mình thành một con gấu”. Đó là chuyện rắc rối cho tôi. Tự nhiên, tôi trở thành một vị anh hùng! Nhưng khi nhìn kỹ những bức ảnh của ông bà Winters, tôi thấy lạ lạ. Cả hai đều có nét mặt như con nít khi bị dẫn đi. Mariam được đưa vào nhà thương điên của quốc gia. Nhưng xử trí với Harry lại là cả một vấn đề. Những bác sĩ tâm thần chẳng làm gì được. Ông ta không nói năng gì. Sau cùng, họ kết luận rằng trí não ông ta trở nên đần độn vì những năm tháng dài bị giam trong chuồng. Ông ta hoàn toàn vô hại, có thể được trông nom riêng. Nhưng thế nào là “trông nom riêng”? Người ta phản đối việc giam lỏng ông ta ở một nơi vì họ cho rằng những năm còn lại trong đời, ông ta đáng được hưởng “tự do” như… Người ta bàn bạc nhiều về việc ấy. Cuối cùng, Harry được trả về nhà cũ. Một nhóm người xung phong được thành lập, thay phiên hàng ngày, từng người đến trông nom ông già, đem thức ăn đến, đem áo quần ông ta đi hiệu giặt… Nhiệm vụ của họ cũng có cả việc “nhân hóa” ông ta. Nhưng họ thất bại hoàn toàn vì Harry chẳng màng nói chuyện với BẤT CỨ AI. Thế sự tự do của Harry có ý nghĩa gì đối với ông ta trong những ngày cuối cùng của cuội đời ông ấy? Cũng lại tôi khám phá ra lần nữa. Bất hạnh thay! Một đêm tháng tám nóng bức, sáu tuần sau khi ông ta được thả về nhà cũ, tôi trở lại nơi đó, quyết định ghé qua nhà để coi ông ta ra sao. Khi tôi đến thì căn nhà tối đen trừ ánh đèn yếu ớt hắt lên từ dưới tầng hầm. Tôi nhớ lại những lời đồn là căn nhà không bị xáo trộn một thứ gì, không một đồ đạc gì được đụng đến. Họ nói… ngay cả giường ngủ cũng không có ai nằm. Phải chăng sau những năm ấy, Harry chỉ có thể ngủ ngon giấc trong cái chuồng cũ của ông ta? Có phải ông ta trở lại đó hàng đêm? Rón rén, tôi bò đến bên nắp hầm. Qua ánh sáng yếu ớt, tôi nhận ra cái chuồng. Kế bên cửa chuồng là cái ghế đu mà Mariam vẫn ngồi. Ngay sau đó, tôi nhận ra cái bóng bên cạnh là Harry. Ông ta ngồi trên sàn, cằm gác lên tay ghế. Tôi ngạc nhiên… có một hình ảnh mơ hồ lãng đãng trong đầu, tôi không nhớ ra, bất chợt nó hiện rõ. Trong phòng ngủ của ông nội tôi có một bức tranh tựa đề “Kẻ than thở của người chăn cừu”. Đó là một bức tranh vẽ hình một con chó u sầu ủ ê nằm cạnh quan tài của chủ nó vừa chết, một người chăn cừu. Sự liên tưởng hình ảnh đó với cảnh tưởng dưới kia làm đau nhói tim tôi. Tôi không thể nhìn thêm nữa. Nhưng khi tôi sắp đứng dậy thì cái bóng khốn khổ kia cử động. Cái đầu rối bù ngước lên, miệng há ra. Một tiếng gào ma quái, rùng rợn. Tôi đưa tay bịt chặt tai lại. Nhưng tôi vẫn nghe. Nó khóc, khóc lớn hơn. Tiếng khóc xé ruột, đau buốt tim gan, tiếng khóc khao khát, tiếng khóc ước ao của một con gấu đã được thuần hóa đòi lại người chủ dịu hiền của nó. Tôi bỏ chạy. Khi thoát khỏi khu vườn ma quái đó, tôi chạy như kẻ mất hồn dưới ánh trăng. Lần này tôi cũng bị rượt đuổi bởi sự khủng khiếp. Nhưng sự khủng khiếp lần này do chính tôi gây ra và tôi biết mình không bao giờ thoát được. Sáng hôm sau, người ta tìm thấy Harry nằm chết trong chuồng. Họ nói do bệnh tim. Sau đó tôi thường thấy những cơn ác mộng trong giấc ngủ. Có lẽ tôi la hét nhiều, nói nhảm nhiều. Vì thế, một sáng nọ, lúc ăn điểm tâm, ông tôi bảo tôi: - Theo ông thì cháu không nên có mặc cảm tội lỗi gì về việc ấy. Nó phải như thế thôi. Tôi gật đầu: – Vâng, cháu hiểu… Nhưng tôi vẫn sống như kẻ trong mơ. Ông tôi lo lắng cho tôi hơn. - Đã đến lúc phải xóa tan cái bóng đen trong đầu cháu rồi đấy. Ông sẽ đưa cháu đến thăm bà Mariam. Tôi đi một cách miễn cưỡng. Nhưng cuộc viếng thăm lại hóa tốt. Bà Mariam vui thích khi có bạn, bà trò chuyện thật vui vẻ. Bà đã biết CON GẤU của bà đã chết. Bà nói rằng bà buồn lắm nhưng bà nói thêm như một triết gia là dù sao nó cũng đã quá già. Rồi thật bất ngờ, bà nói nếu nó còn sống và còn ốm lần nữa, bà sẽ cho nó ngủ mãi mãi. Ông tôi liếc nhìn tôi đầy ngụ ý. Rõ ràng, tôi chẳng cần thêm chứng cớ gì để biện minh cho việc tôi tố giác bà Mariam là sai về… mặt nhân đạo. Theo ông tôi thì cuộc viếng thăm đó thật tốt đẹp. Nhưng theo tôi, ở mặt khác nó ngược lại hoàn toàn vì bà Mariam là người tử tế, tốt bụng. Bà nói trông thấy tôi, bà nhớ đến con trai bà. Bà mong tôi đến thăm bà thường xuyên. Thật ngạc nhiên, tôi nhận lời sẽ làm vui lòng bà. Tôi giữ lời hứa. Phải đó là cách xoa dịu mặc cảm tội lỗi của tôi? Vì tôi đã phá vỡ cuộc sống thích hợp của vợ chồng họ? Tôi không biết, nhưng tôi biết một điều là trong những cuộc trò chuyện với bà ấy, tôi đã HIỂU TẤT CẢ những nguyên nhân dẫn đến sự cầm tù Harry. Tôi nói với ông tôi: – Bà ấy không hẳn là diên đâu, không hoàn toàn điên, trừ