sáng hình vuông trên tường đã di chuyển chếch xuống phía dưới và lúc này nó nằm nơi chân ghế trường kỷ của tôi. Phần còn lại của căn phòng bị chìm sâu trong bóng đêm tối sầm. Mới đầu tôi không thể phân biệt được chút gì cả rồi mắt tồi làm quen với bóng tối, rồi thì tôi nhận ra, với một cảm giác ớn lạnh, rùng mình mà các thói quen thiên về khoa học của tôi đã tỏ ra bất lực không thể kìm hãm được, đó là một vật gì đó đang di chuyển thong thả dọc theo bức tường. Thính giác trở nên bén nhạy hơn của tôi ghi nhận thấy một tiếng động nhẹ vừa tắt đi, tiếng động của những chiếc giày vải kéo lê trên mặt đất và tôi phân biệt ra một cách mơ hồ một bóng người bước đi một cách lén lúc; bóng này từ phía của ra vào đi tới; bóng đó nhô ra trong phần được chiếu sáng bởi ánh trăng và tôi đã nhìn thấy nó rõ ràng. Đó là một người đàn ông nhỏ và thấp, mặc một thứ áo dài màu xám đậm, dài thẳng từ hai vai tới chân. Ánh trăng soi sáng một bên mặt hắn ta, tôi nhận thấy da mặt màu sôcôla và hắn ta có một búi tóc đen phía sau đầu. Hắn ta đi thong thả, mũi ngẩng lên trời, hướng về cái xích đông nơi có những bình chứa đựng các mảnh vụn của những người đã chết. Hắn có vẻ xem xét tỉ mỉ từng bình một. Khi hắn xem xét xong, ngay chỗ cuối giường tôi, hắn dừng lại, quay mặt về phía tôi, giơ hai bàn tay lên một vẻ tuyệt vọng và biến mất. Tôi nói rằng hắn giơ hai bàn tay lên; lẽ ra tôi nên viết rằng hắn giơ hai cánh tay lên, vì khi hắn ta làm dáng điệu tuyệt vọng đó, tôi nhận thấy một điều đặc biệt: hắn chỉ có một bàn tay! Khi những ống tay áo tụt xuống dọc theo những cánh tay giơ lên của hắn, tôi nhìn thấy rõ ràng bàn tay trái, nhừng còn bàn tay phải chỉ là một cái cùi tong teo gớm ghiếc. Ngoài cái bàn tay cụt đó ra, hắn ta có vẻ rất bình thường, tôi đã nhìn thấy hắn và nghe hắn một cách rất rõ rệt đến nỗi tôi tự hỏi có phải hắn là một trong những tên đầy tớ người Ấn Độ của ngài Dominic tới kiếm một vật gì trong phòng thí nghiệm không. Nhưng sự biến mất thình lình của hắn gợi ra cho tôi một sự giải thích thiếu bình thường. Tôi đứng bật dậy, thắp nến lên và xem xét tỉ mỉ căn phòng. Vì tôi không tìm thấy một dấu vết nào của người khách của tôi, tôi phải chấp nhận rằng sự hiện diện của hắn đã một phần nào vượt ra ngoài khuôn khổ các qui luật tự nhiên. Tôi không ngủ lại nữa; nhưng đêm qua đi mà không có một sự cố nào khác. Bao giờ tôi cũng dậy sớm; nhưng ông chú tôi đã dậy sớm hơn tôi: ông đang đi bách bộ trên thềm cỏ trước nhà; khi ông thấy tôi đứng trên bực cửa, ông chạy lại. – Thế nào? ông nói lớn. Cháu có thấy hắn không? – Một gã Ấn Độ chỉ có một bàn tay? – Đúng. – Vâng, cháu đã thấy hắn. Tôi kể lại cho ông nghe những việc đã diễn ra. Sau đó, ông dắt tôi vào phòng làm việc của ông. – Chúng ta có đôi chút thời giờ trước khi ăn điểm tâm, ông nói với tôi khoảng thời gian đó đủ để cho cháu nghe một cách giải thích về sự việc dị thường này, theo như chỗ chú có thể giảng nghĩa cho cháu một điều mà thật ra không thể nào giải thích được. Trước hết khi chú nói cho cháu hay rằng từ bốn năm nay không bao giờ chú ngủ được trọn vẹn một đêm, dù là ở Bombay, dù là ở trên tàu thủy, dù là ở nước Anh, mà không bị quấy rầy trong giấc ngủ bởi con người đó, cháu sẽ hiểu tại sao chú lại trở thành con người tàn tạ. Chương trình của hắn ta không thay đổi. Hắn hiện ra bên cạnh giường chú, lay mạnh vào vai chú, đi từ phòng chú vào phòng thí nghiệm, đi thong thả trước dãy bình của chú, rồi biến mất. Ít nhất hắn đã làm như vậy hàng ngàn lần. – Hắn đòi hỏi gì ở chú? – Bàn tay hắn. – Bàn tay hắn à? – Ừ, khoảng độ 10 năm trước, chú được mời tới khám bệnh ở Pessawa; trong chuyến công tác của chú, người ta yêu cầu chú xem bàn tay một người bản xứ đi qua thành phố cùng với một đoàn xe của người Afghanistan. Hắn ta gốc gác ở một bộ lạc sơn cước sinh sống ở từ xa, phía bên kia dẫy núi Kafiristan và hắn nói một thổ ngữ gần như không ai hiểu được. Hắn bị bệnh sưng phù biến nhan ở một trong các khớp xương bàn tay và chú cố sức nói cho hắn ta hiểu là hắn chỉ có thể cứu lấy mạng sống bằng cách hy sinh bàn tay của hắn. Phải vất vả lắm chú mới thuyết phục được hắn ta; sau hết hắn đồng ý việc giải phẫu. Ngay khi việc giải phẫu xong xuôi, hắn ta hỏi chú là hắn phải trả bao nhiêu tiền. Thằng quỷ khốn khổ đó gần như một tên ăn xin, nên chú không lấy tiền của hắn. Nhưng chú trả lời hắn với sự bông đùa rằng chú bằng lòng lấy bàn tay của hắn và rằng chú có ý định lấy bàn tay đó để thêm vào bộ sưu tập về bệnh lý của chú. “Trước sự kinh ngạc vô cùng của chú, hắn ta đưa ra nhiều lý lẽ để phản đối. Hắn ta cắt nghĩa cho chú thấy là theo tôn giáo của hắn, thật là tối quan trọng việc thể xác phải hợp nhất lại sau khi người ta chết, để dùng lam nơi trú ngụ hoàn hảo cho linh hồn. Như cháu đã biết, sự tín ngưỡng này đã có từ rất lâu đời và những xác ướp của người Ai Cập cũng xuất phát từ một mối dị đoan tương tự. Chú hỏi hắn ta là hắn ta làm cách nào để bảo tồn nó. Hắn nói hắn sẽ cho ngâm nó vào nước muối và hắn sẽ luôn luôn mang nó bên mình. Chú bảo hắn rằng chắc chắn là nó sẽ được an toàn ở nhà chú hơn là ở trong người hắn và rằng chú có sẵn những chất liệu tốt hơn để bảo tồn nó. Khi hắn hiểu rằng chú thực bụng muốn bảo toàn bàn tay ấy, sự chống đối của hắn chấm dứt hình như với sự hoan hĩ. “Nhưng xin ông nhớ rằng, ông quan thầy, hắn nói với chú, rằng tôi sẽ trở lại tìm nó khi tôi chết.” Chú bật cười và sự việc đã kết thúc. Chú quay về với các thân chủ của chú và chắc hắn có thể tiếp tục lên đường đi Afghanistan.“Như chú đã nói với cháu về việc đó chiều hôm qua, nhà của chú truyen ma moi nhat ở Bombay hầu như bị cháy rụi hoàn toàn. Cùng với nhiều đồ vật khác, bộ sưu tầm về bệnh lý học của chú đã bị thiêu hủy gần như hoàn toàn, trong đó có cả cái bàn tay của anh chàng người sơn cước đó. Việc đó xảy ra đã sáu năm rồi.” “Ngay lúc đó chú không nghĩ tới việc thương tiếc cái bàn tay đó. Nhưng hai năm sau vụ hỏa hoạn, một đêm chú đã bị đánh thức dậy bởi một kẻ nào đó, hắn giật ống tay áo của chú một cách giận dữ. Chú ngồi dậy, nghĩ rằng con chó cưng của chú muốn làm chú thức giất. Thay vì con chó, chú đã nhìn thấy anh chàn bệnh nhân người Ấn Độ thưở trước, mặc một cái áo dài màu xám, là bộ y phục dân tộc của anh ta. Hắn ta hua cái cùi tay cụt lên va nhìn chú với một vẻ trách móc. Sau đó hắn đi tới phía những bình của chú, mà khi đó chú giữ ở trong phòng của chú; hắn xem xét những bình này một cách chăm chú; rồi hắn đưa ra một điệu bộ giận dữ và biến mất. Chú đoán rằng hắn ta vừa mới chết và hắn ta tới nhắc lại với chú lời hứa của chú và đòi lại bàn tay của hắn.” “Như vậy đó ! Cháu đã biết tất cả, bác sĩ Hardane ạ. Mỗi đêm, cứ vào giờ đó, từ bốn năm nay, cái cảnh đúng hệt như vậy cứ diễn ra. Nó làm chú mòn mỏi đi như một hòn đá bị mòn đi vì một giọt nước cứ đều đặn rơi xuống hoài. Nó đã mang tới cho chú sự mất ngủ, vì chú không thể nào ngủ được, chú chờ đợi sự xuất hiện của thằng cha người Ấn Độ. Việc này đã đầu độc những ngày tàn của chú và những ngày tàn của vợ chú là người cũng dự phần vào nỗi lo âu lớn này. Nhưn